Phan Thị Nga
Lai
Tân
Giam phòng
ban trưởng thiên thiên đổ
Cảnh trưởng
tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng
thiêu đăng biện công sự
Lai Tân y
cựu thái bình thiên
Dịch thơ: Lai Tân
Ban trưởng
nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người
cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn
huyện trưởng lo công việc
Trời đất Lai
Tân vẫn thái bình
Nam
Trân
Trong những bài thơ phản ánh, phê phán chế độ nhà tù Tưởng Giới
Thạch của tập Nhật kí trong tù, Lai Tân được xem là bài thơ tiêu
biểu cho bút pháp châm biếm, trào lộng của Hồ Chí Minh. Lai Tân là bài thơ số 97
trong số 134 bài thơ của Nhật kí trong tù, được viết vào tháng 12- 1942. Lai
Tân cũng là một địa danh Hồ Chí Minh bị giải đến trong suốt chặng đường từ
Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.
Đối tượng trực tiếp mà Hồ Chí Minh châm biếm trong bài thơ là ba
con người Bác đã gặp, đã thấu hiểu ở chặng dừng chân Lai Tân và Bác đã chẳng
ngại ngần gì khi chỉ đích danh ba đối tượng ấy là ban trưởng, cảnh trưởng,
huyện trưởng. Ba đối tượng đều giữ chức “trưởng”, chức vụ cao nhất, người đứng
đầu một đơn vị, tổ chức nào đó. Cụ thể ban trưởng là người đứng đầu, phụ trách
việc quản lí nhà giam; cảnh trưởng là người chịu trách nhiệm cao nhất trong
việc áp giải phạm nhân; huyện trưởng là người có địa vị cao nhất huyện, trông
coi, lo toan công việc huyện Lai Tân. Những đối tượng này được xem là danh giá
nhất, tiêu biểu nhất cho chính quyền và bộ máy luật pháp dưới chế độ Tưởng Giới
Thạch.
Tiếng cười, sự
châm biếm được toát ra từ chính sự mâu thuẫn giữa cái bề ngoài (hình thức) với
cái bên trong (nội dung) ở ba con người được gọi đích danh trong ba câu thơ đầu:
Bề ngoài –
hình thức Bên
trong – nội dung
Ban trưởng > < thiên thiên đổ
Cảnh trưởng > < tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng > < thiêu đăng biện công sự
Sự lố bịch, hài
hước, đáng giễu cợt nằm ngay trong những mâu thuẫn này.
Ở câu một, người quản lý trật tự trại giam thật ra chỉ là một tên
bài bạc. Hành vi đánh bạc của y diễn ra một cách thường xuyên “thiên thiên”
(ngày ngày). Điệp từ thiên được dùng
nhằm lột tả rõ cái bên trong, cái nực cười của công việc mà ông “ban trưởng”
đảm trách. Đâu phải ông làm ban trưởng để quản lý trại giam. Ông làm ban trưởng
để đánh bạc đấy chứ! Và “ban trưởng” làm gì có đủ tư cách để làm ban trưởng bởi
bản thân ông cùng với những phạm nhân bị “quan bắt tội” vì “đánh bạc ở ngoài”
là những kẻ cùng hội cùng thuyền.
Trong câu 2: cảnh
sát trưởng, người lo việc dẫn giải phạm nhân, kẻ thực thi pháp luật, có chức
phận tương tự ban trưởng phòng giam, oai phong – uy nghiêm về chức tước như thế
song thực chất là một kẻ tham lam, vòi vĩnh tiền phạm nhân. Điều này chúng ta
đã gặp ở những bài thơ khác trong Nhật kí trong tù với các khoản thu
phí vô lí từ việc thổi cơm, nấu nước (Công
kim) đến phí thắp sáng (Đăng quang
phí)…Người thực thi pháp luật hóa ra lại là kẻ lèo lá, đê hèn, xấu xa,
chẳng coi luật pháp ra gì.
Đặt “ban trưởng”
bên cạnh “cảnh trưởng”, hai câu thơ đầu đối nhau trong sự tương xứng, gần gũi
về ý nghĩa cùng góp phần tô đậm hiện thực xấu xa, thối nát của các vị quan chức
nhà tù. Từ những mâu thuẫn giữa bề ngoài với bên trong, hình thức với nội dung,
Hồ Chí Minh gửi gắm vào đấy thái độ phê phán qua tiếng cười toát ra từ sự đối
lập về chuẩn mực đạo đức cần phải có với sự thực sa đọa về đạo đức ở các kẻ
quan chức trên.
Khác với hai câu
đầu, cái nhìn của tác giả tập trung vào chốn trại giam, câu thơ thứ ba thể hiện
sự mở rộng không gian quan sát: từ không gian chốn trại giam hướng đến không
gian rộng lớn bên ngoài xã hội: huyện Lai Tân. Và cũng bằng điều tai nghe mắt
thấy về vị huyện trưởng, tác giả gửi một tiếng cười hóm hỉnh, thâm thúy: “Huyện
trưởng thiêu đăng biện công sự”. Đây là câu thơ giữ vai trò chuyển ý đã được triển
khai ở hai câu trên, chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu kết. Câu 3 đã đem lại
nhiều cách hiểu khác nhau trong độc giả và giới nghiên cứu. Cách hiểu khá phổ
biến là huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện. Ngài huyện trưởng chong đèn ban
đêm đâu phải để giải quyết công việc, đâu phải vì mẫn cán, tận tâm mà chỉ là ngài đang “biện” “tư sự” đấy thôi!
Thực ra là ngài làm việc riêng, ngài hút thuốc phiện - “các quan huyện hồi ấy
bên đó khi làm việc quan có bao giờ phải đốt đèn (thiêu đăng) đâu. Ngài đốt đèn
hút thuốc phiện đấy thôi! Đó là sự thật trong các huyện đường Quảng Tây dưới
thời Tưởng” (Đặng Thai Mai, tr 192, Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb
Khoa học xã hội, 1979); cũng có người cho rằng ngài huyện trưởng chong đèn
ngoài hút thuốc phiện ra còn để làm những việc “tư” mờ ám, khuất tất khác không
thể làm vào ban ngày. Cách hiểu này làm nên sự lôgic, sự liền mạch với ý mà câu
1, câu 2 đã triển khai và làm hoàn chỉnh thêm thực chất về thói sa đoạ, thối
nát trong giới quan chức của chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Một cách hiểu
khác về câu 3 không dừng lại ở công việc
cụ thể viên huyện trưởng làm mà chỉ dừng lại ở hình ảnh ông ta đốt đèn làm
việc. Hình ảnh ấy, bề ngoài đã gợi lên sự mẫn cán lo toan công việc cho dân và
trong chừng mực nào đấy “để tạo một hình ảnh thái bình vô sự bề ngoài” (Trần
Đình Sử - Đôi lời nói lại về bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh trong sách giáo
khoa Ngữ văn 11 – phongdiep.net). Song dù huyện trưởng có mẫn cán đến đâu, dù
có lo toan công việc cả ngày lẫn đêm thì cái hiện thực đầy xấu xa trong địa hạt
ông ta cai trị vẫn ngang nhiên tồn tại. Những kẻ giúp việc cho ông như ban
trưởng, cảnh trưởng còn thối nát thế, nói gì đến kẻ khác! Và cái mẫn cán của
huyện trưởng không thể che dấu được cái thối nát, mục ruỗng bên trong của ban
trưởng, cảnh trưởng.
Dù được hiểu theo
cách nào thì câu thơ thứ 3 cùng với 2 câu thơ đầu đã ghi lại những điều mắt
thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm tại Lai Tân, miêu tả một cách
khách quan, trung thực hình ảnh các đối tượng quan chức ở Lai Tân với tinh thần
phê phán mạnh mẽ. Tiếng cười châm biếm, phê phán trong bài thơ vì vậy không chỉ
toát ra từ những mẫu thuẫn đã nói ở trên mà còn toát ra từ thái độ khinh bỉ,
chế giễu đối tượng.
Lai Tân không chỉ dừng lại ở việc mỉa
mai, châm chọc vào các đối tượng ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng, cũng
không đơn thuần chỉ là sự phê phán chế độ nhà tù thối nát của Tưởng Giới Thạch.
Sức phê phán của bài thơ đã vượt ra những đối tượng cụ thể mà nhằm vào cả thể chế
chính trị thối nát đương thời. Độc giả có quyền liên tưởng đến bộ máy pháp
luật, cơ cấu chính trị mục ruỗng, thối nát hiện tồn ở Trung Hoa. Năm 1942, năm bài
thơ ra đời là thời điểm Trung Quốc đang bị phát xít Nhật xâm lược, vận mệnh dân
tộc đang ngàn cân treo sợi tóc nhưng hàng ngũ quan lại Trung Quốc vẫn bình chân
như vại, ung dung hưởng lạc. Sự thực ấy thật đáng băn khoăn, đáng phê phán.
Mang thân phận là một phạm nhân, lại là người ngoại quốc nhưng là
một nhà chính trị nên Hồ Chí Minh rất có ý thức khi quan niệm văn thơ là sự
nghiệp chính trị, hành vi chính trị. Vì vậy, những nỗi niềm, tình cảm của Người
dồn cả vào câu kết-câu 4:
Lai Tân y cựu thái bình thiên
Học tập tứ thơ
trong Đường thi, cụ thể từ Đề đô thành
Nam trang của Thôi Hộ nhưng Hồ Chí Minh không bày tỏ nỗi hoài cổ, nhớ tiếc
về quá khứ đẹp đẽ như Thôi Hộ mà lại gửi gắm vào câu thơ sự giễu nhại đầy thâm
thúy. Câu thơ, trên bề mặt câu chữ là một lời nhận xét khen ngợi, khẳng định về
cảnh thái bình ở Lai Tân nhưng đằng sau sự khẳng định ấy là thái độ chỉ trích,
phê phán kín đáo nhưng vô cùng sâu cay của Bác: (thế mà) trời đất Lai Tân vẫn
thái bình như cũ. Chữ “thế mà” không xuất hiện nhưng độc giả có quyền hiểu Bác
đã lược bỏ nó để gửi ý rằng sự thái bình kia chỉ là thái bình giả tạo. Thực
chất bên trong của cái gọi là thái bình ấy là những ung nhọt, thói sa đọa, phi
đạo đức của hàng ngũ quan lại. Hiện thực vừa miêu tả ở ba câu thơ trên đối lập
triệt để với hiện thực ở câu cuối tưởng chừng tạo nên một sự phi lí, không nhất
quán trong lập luận, trên thực tế đã xé toang bức bình phong thái bình dối trá
nhưng sự thực đang đại loạn bên trong, trực tiếp là của huyện Lai Tân, rộng lớn
hơn là của chế độ Tưởng Giới Thạch. Chốt bài thơ bằng hình ảnh xã hội thái
bình, bằng sự bất biến “y cựu” nhưng xâu chuỗi, liên kết toàn bộ các đối tượng
quan lại thối nát về đạo đức trong xã hội với nhau lại làm nên một bức tranh
thối nát muôn thuở không chỉ của giai cấp thống trị Trung Hoa mà còn là của xã
hội Trung Quốc.
Tiếng cười giễu nhại ở câu cuối đã lật tẩy bản chất của thể chế
chính trị ở Lai Tân, như một dự báo về sự cáo chung của chế độ Quốc dân đảng do
Tưởng Giới Thạch cầm đầu bởi vì cái gọi là “thái bình thiên” vốn đã thối nát
như thế từ bao giờ.
Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, thể thơ cổ điển của Trung
Quốc thường được người xưa sử dụng để ngâm vịnh hoài bão lý tưởng hoặc ca ngợi
thiên nhiên, Lai Tân đã vượt khỏi khuôn phép truyền thống bằng cách hướng đến
miêu tả - phản ánh hiện thực khách quan và đạt được những thành công đáng kể. Lai Tân đã đạt đến trình độ “đưa thời sự
vào thơ”, tiếp thu tinh thần phản ánh hiện thực từ Đỗ Phủ, nhà thơ hiện thực
xuất sắc đời Đường Bác vẫn ngưỡng mộ. Thông qua việc ghi chép những điều bản
thân đã mục sở thị, Hồ Chí Minh đã vẽ một bức tranh hiện thực sáng rõ về lũ quan
lại thối nát ở chốn lao tù và cả trong guồng máy chính trị đương thời.
Giọng điệu chủ đạo trong Lai Tân là giọng điệu châm biếm. Sự vận
dụng và kết hợp nhuần nhuyễn các cấp độ của giọng châm biếm đã góp phần gia
tăng hiệu quả phê phán, tố cáo của bài thơ. Ba câu thơ đầu là ba câu thơ tự sự
có giọng châm biếm mạnh mẽ, trực tiếp, không né tránh quanh co, được biểu hiện
ở việc nêu đích danh đối tượng, kể từng tội trạng của đối tượng. Câu thơ kết là
câu thơ trữ tình gợi nhiều hơn tả, giọng giễu nhại, trào lộng nhẹ nhàng mà thâm
thúy. Song sự giễu nhại nhẹ nhàng, thâm thúy ấy lại gợi lên bao suy nghĩ về chế
độ nhà tù Tưởng Giới Thạch, về bản chất của hàng ngũ quan lại đương thời, về
thực trạng của xã hội Trung Hoa.
Vấn đề mà Hồ Chí Minh đề cập trong Lai Tân không chỉ là vấn đề của
thực tại mà còn là vấn đề của mọi thời đại, mọi quốc gia. Đạo đức, tư cách của
những người làm quan, làm quản lí nhà nước mãi mãi là điều cần được quan tâm. Những
người đảm trách công việc quản lý sẽ tự nhìn lại mình qua việc làm của ban
trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng để tự sửa mình và làm cho đất nước thái bình
thực sự.
Hơn 70 năm đã trôi qua, Nhật ký trong tù nói chung, Lai Tân nói
riêng vẫn cuốn hút độc giả vì sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển và
hiện đại, vì tinh thần “thép” trong thái độ châm biếm, tố cáo thẳng thắn, mạnh
mẽ của Hồ Chủ tịch.
PTN
Tác giả bài viết Phan Thị Nga (thứ hai phải sang) trong dịp gặp gỡ bạn bè tại TP. Thanh Hóa, tháng 4 năm 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới