29 tháng 10, 2012

Sài Gòn lắm bà


Nhà tôi ở vùng Bà Quẹo, một địa danh nổi tiếng từ thời xa lắc xa lơ của Sài Gòn. Nói đến Bà Quẹo người SG ai cũng  biết tiếng và quen thuộc với địa danh này. Nhưng cũng không ít người vẫn thường đặt câu hỏi: tại sao lại gọi là Bà Quẹo nhỉ. Như tôi dù sống trong vùng đất Bà Quẹo vậy mà vẫn bí rì rì khi nghe bạn bè hỏi Bà Quẹo nghĩa là gì. Đó là tên của một bà tên Quẹo hay là do nó thuộc phường 13, 14 quận Tân Bình (từ khi tách quận thì một phần phuờng 14 Q. Tân Bình đã thành phường Tân Sơn Nhì Q. Tân Phú) có con đường Trường Chinh dài dằng dặc rồi có những ngã ba để khi đến các phường trên phải quẹo vô Âu Cơ, quẹo vô Tân Sơn Nhì thành ngã ba Bà Quẹo nên gọi là Bà Quẹo.
thế mà cất công tìm hiểu về Bà Quẹo. Mà không chỉ có một Bà Quẹo, tôi thấy ở SG la liệt những địa danh bắt đầu bằng chữ Bà. Như Bà Hom, Bà Hạt, bà Điểm… xa hơn tận phía Vũng Tàu còn có thêm Bà Rịa nữa.
a ra câu trả lời cũng đơn giản. Tất cả 5 bà trên đều là những bà vợ của ông Lãnh Binh Thăng (tên thật là Nguyễn Ngọc Thăng 1789-1866) là một viên tướng yêu nước từng chỉ huy quân đội chống lại quân Pháp thời nhà Nguyễn. Là võ tướng nhưng Lãnh Binh Thăng rất có  đầu óc kinh tế. Ông là người đã có công  xây cây cầu bắc từ quận 1 sang quận 4 được gọi là cầu Ông Lãnh. Dân SG rất ngưỡng mộ ông và chính quyền các thời đại cũng vậy, suy tôn ông làm một danh nhân yêu nước. Do vậy mà ở quận 1 có hẳn một phường mang tên ông – phường Ông Lãnh, ở quận 11 có một con đường lớn mang tên ông – đường Lãnh Binh Thăng
                                                    
                                          Lãnh Binh Thăng (1798-1866). Hình tư liệu



Thông thường những viên tướng giỏi cũng đồng thời là những người đàn ông đào hoa và đa tình. Lãnh Binh Thăng cũng vậy. Ông đi đến đâu là có những người đẹp vây quanh đến đấy. Vì thế mà ông có những năm bà vợ.
Sẽ có người thắc mắc: một nách  5 bà vợ với 5 đàn con thì ông Lãnh Binh làm sao mà nuôi nổi. Tuy nhiên với ông Lãnh thì không khó. Theo giải pháp kinh tế tự cung tự cấp mà các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông Lãnh đã mua đất xây 5 cái chợ to, giao cho mỗi bà cai quản một nơi và lấy luôn tên các bà làm tên chợ.

Chợ Bà Quẹo nay là chợ Võ Thành Trang nằm trên đường Trường Chinh thuộc P. 14 Q. Tân Bình. Chợ Bà Hom gần đường Bà Hom thuộc quận Bình Tân.  Chợ Bà Hạt gần Trường Đại học Kĩ thuật, phường 9 quận 10. Chợ Bà Điểm thuộc xã Bà Điểm huyện Hóc Môn nơi có 18 thôn vườn trầu nổi tiếng. Cuối cùng xa nhất là chợ Bà Rịa hiển nhiên là thuộc thị xã Bà Rịa tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu mà ai đã một lần đi nghỉ mát Long Hải không thể không ghé qua mua cá khô với nước mắm mang về SG làm quà. 
Theo học giả Trương Vĩnh Ký thì còn có một bà khác tên Chiểu với ngôi chợ Bà Chiểu nằm ngay góc Phan Đăng lưu – Bùi Hữu Nghĩa thuộc phường 1 quận Bình Thạnh cũng là một hậu phương vững mạnh khác nữa của ông lãnh Binh Thăng 
Nếu vậy thì ông tướng này có những 6 bà vợ với 6 ngôi chợ rải rác khắp Sài Gòn
.
hậu thế hèn mọn như kẻ viết bài này không ngả nón kính nể ông lãnh Binh Thăng mới lạ.

26 tháng 10, 2012

Nếu đi hết biển...

 Chủ nhật rảnh bèn lục lọi linh tinh giá sách, thấy trong những tập tài liệu cũ cuốn Nếu đi hết biển của đạo diễn Trần Văn Thủy. Lật đọc lại từng trang sách cũ chợt nhớ lại một câu nói giản dị như chân lí của Trần Văn Thủy…
… Hà Nội, cách đây đã mấy năm, trong một liên hoan TV, tôi cùng người học trò cũ là Trương Vũ Quỳnh, cựu Sv khoa Văn QNU hiện làm Pv của vtv Đà Nẵng và đạo diễn Trần Văn Thủy ngồi café ở quán góc sân Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô (bây giờ người ta không hiểu vì lí do gì đã bỏ mất chữ Việt – Xô, hay là sợ xấu hổ khi nhắc đến một thành trì của phe xhcn đã lặn không sủi tăm, chỉ còn lại cụt lủn là Cung VHHN, mà không biết là hữu nghị với ai). Chúng tôi đến trước chọn bàn và ngồi đợi. Khi thấy đạo diễn Trần Văn Thủy bước vào sau đó không lâu, nhiều người trong quán đều kính cẩn chào và bắt tay tác giả của Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế lừng danh.
Ông quen Quỳnh trong một chuyến vào làm phim tài liệu ở Đà Nẵng, lần đó Quỳnh là người đi theo giúp ông mấy việc trong đoàn làm phim. Trần Văn Thủy cho biết là Ông mới đi Mĩ 3 tháng về có nhiều chuyện lắm rồi lấy trong cái túi vải đeo bên mình cuốn Nếu đi hết biển ra kí tặng Quỳnh, không quên dặn Quỳnh là photo thêm cho tôi một bản, vì trong túi chỉ còn có một cuốn.
                             
[image]
                                                                              Nếu Đi Hết Biển
                                     
Tôi có bản photo của NĐHB từ đó, đọc và cất giữ như một cuốn sách quí. Dọn nhà đã mấy lần, đã thanh lí rất nhiều sách cũ, nhưng cuốn sách của Trần Văn Thủy thì không bao giờ rời bỏ.
Trong cuộc trò chuyện, Trần Văn Thủy giải thích về cái tít mà ông đã giật cho cuốn sách: Nếu đi hết biển thì (nhân loại) sẽ gặp nước Mĩ.
Chúng tôi nghe mà giật cả mình. Ông nói say sưa, giải thích bình luận sôi nổi, thuyết phục và lôi cuốn hơn cả khi được xem phim CTT và HNTMA. Rất đông người trong quán lúc bấy giờ đã kéo ghế dồn lại bàn chúng tôi để được nghe Trần Văn Thủy nói trong một cuộc gặp đầy ngẫu nhiên và ngẫu hứng.
Hóa ra là thế. NSND Trần Văn Thủy đã chỉ ra rằng nước Mĩ là chân trời, là tương lai, là đích đến của nhân loại, của cả thế giới này. Tất cả những điều đó ông đã nói hết trong NĐHB.
Thảo nào mà trong chuyến đi của lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình sang thăm nước Mĩ 1972, một thành viên cao cấp của Cs Trung Quốc đi trong đoàn sau khi được chứng kiến tận mắt xã hội Mĩ đã phải thốt lên:  Tôi đã thấy CNCS rồi.            
  
Được đăng bởi nguyentrongtao.org
...Tháng 8-2002 WJC lại liên lạc với tôi nhắc lại lời mời, tôi rất cám ơn và vẫn từ chối. Cuối cùng họ chân tình cho biết, nhiều người ở Mỹ muốn gặp tôi. Tôi vui vẻ Thank you very much và bay qua Mỹ. Nhận 6 tháng lương, các loại vé bay nội địa và một cái Thẻ Xanh (nếu có thì giờ tôi sẽ trở lại câu chuyện cái Thẻ Xanh này sau nhé. Lúc đó tôi chẳng hiểu nước Mỹ cấp cho tôi cái đó để làm gì, mãi đến sau này tôi mới hiểu được giá trị của cái Thẻ Xanh). Viết tới đây tôi rất nhớ và cám ơn mấy người bạn ở WJC đã trở thành thân thiết, quan tâm chu đáo với tôi rất nhiều.

2- “GIÀ RỒI, LÀM THẾ ĐỦ RỒI! CHƠI ĐI! KHÔNG CHƠI THÌ CŨNG CHẾT!”
Ngày 1-10-2002 tới Boston, mấy ngày sau tôi tới văn phòng của WJC trong khuôn viên của Đại học Massachusett để chào mọi người, “nhận việc” với ông Kevin Bowen giám đốc Trung tâm.
Sau một hồi trao đi đổi lại về những băn khoăn của tôi trước lời mời và những việc mà tôi sẽ làm. Các bạn ở WJC hóm hỉnh nói với tôi rằng:
- Đây là nước Mỹ…có nghĩa là ông muốn làm gì thì làm, ông muốn đi đâu thì đi, muốn viết lách hoặc làm phim gì tùy ông. Nếu không hứng thú làm cái gì cả, tiêu hết tiền thì ông về Việt nam.
- Nước Mỹ của các ông thật là tuyệt! Nếu không làm được gì thì tôi đi chơi. Ông có biết không? Trước khi lên máy bay ở Hà nội một bạn trẻ của tôi, nó bô bô dặn tôi rằng “Già rồi! Làm thế đủ rồi! Chơi đi! Không chơi thì cũng chết!” Nó nói rất thật lòng và có ý thương tôi.
OK! Thế là tôi đi chơi. Một nhà thơ mới quen biết, anh Hoàng Chính Nghĩa đã đưa tôi đi Las Vegas . Lần khác, một cô gái Mỹ chính cống nói tiếng Việt rất sành điệu lái xe đưa tôi đi Hollywood . Cô ấy rất tốt với tôi, có lúc hai đứa dừng xe, ngồi trên đồi cao, ngắm toàn cảnh vùng Hollywood …Thế mà bây giờ tôi quên mất tên cô ấy rồi, chán thật! Tôi gặp lại Lưu Hà, người quay phim Hà Nội Trong Mắt Ai sau nhiều năm lưu lạc. Hà đãi tôi một chuyến du ngoạn Disneyland. Rồi mấy bạn trẻ từ Việt Nam sang du học rủ tôi đi xem Lá Vàng, mùa thu vàng ở vùng Đông Bắc, tiểu bang Vermont…Thiên nhiên nước Mỹ, bầu trời, rừng cây, sóng biển, màu nắng qủa là hấp dẫn trong mắt một người làm phim như tôi.
Nhưng, tựa như một ma lực, một định mệnh, tôi bắt gặp nhiều hoàn cảnh, nhiều câu chuyện trong bà con người Việt mà tôi có thể tiếp xúc. Vui thì tôi chóng quên, buồn thì tôi bị ám ảnh, ám ảnh nhiều lắm, nhất là chuyện vượt biên, vượt biển, cải tạo, tù tội…
Bất giác trong tôi, mơ hồ một mặc cảm tội lỗi…
Rồi một lần đi trên xa lộ mênh mông với hơn chục làn đường, dài hun hút, ngước nhìn bầu trời, có những đàn chim bay rất cao về phương Nam, bên phải là Đại Tây Dương sóng đập ầm ầm vào vách đá tung bọt trắng xóa. Tôi chợt rùng mình, như thấy một sự mách bảo từ rất cao, từ rất xa, rằng: Trời Phật đang cho ngươi một cơ hội để làm một việc có ích! Tôi lặng người…
Từ đó tôi không đi chơi nữa, tôi quyết định toàn tâm toàn ý vào một công việc rất mơ hồ và không rõ cái đích ở đâu, chỉ đinh ninh là nó sẽ có ích. Tất nhiên với WJC, với Kevin, nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ chứ trước khi rời khỏi Mỹ, dài ngắn nông sâu gì thì tôi cũng sẽ nộp cho anh ta một xấp giấy có chữ. Gọi nó là gì cũng được, nhưng xin chớ gọi là “công trình nghiên cứu” Kevin ạ!
Tôi không rong chơi được nữa, dù lời người bạn trẻ vẫn văng vẳng bên tai: “Già rồi! Làm thế đủ rồi! Chơi đi! Không chơi thì cũng chết!”
3- ĐẦU TÊU LÀ BỐ NGUYÊN NGỌC!
Tôi đặt bút viết những trang đầu, rồi cố gắng “rặn” ra được quãng bốn năm mươi trang, suôn sẻ. Do có thói quen “đội mũ Kim Cô ôtômatích” (trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam không ít người chỉ cần nghĩ khác cấp trên là tự nhiên thấy đau đầu), tôi luôn nghĩ đến người đọc, người đọc trong nước và đặc biệt là người đọc ở Mỹ. Tôi bị khựng lại hoàn toàn. Tôi không thể viết được, dù cố gắng, dù có tấm lòng, dù chân thực, dù khách quan thì những gì tôi viết ra vẫn sẽ bị xăm soi, mổ xẻ, suy diễn bởi một điều đơn giản: Tôi từ Việt nam sang! “Ôi, cái người Việt mình nó thế!” Có biết bao điều cần nhắn gửi, cần tỏ bày, cần suy ngẫm xung quanh tôi, nhất là tôi đi nhiều tiểu bang, gặp nhiều người, thăm nhiều gia đình, lắng nghe và nói chuyện đến gần một trăm buổi ở các Đại Học danh tiếng nước Mỹ.
Hoàn cảnh xui khiến, nghề nghiệp mách bảo, có một cách làm khả dĩ hơn, người đời dễ cảm thông hơn, đó là đè mấy ông bạn văn chương, trí thức, cởi mở để trao đổi, trò chuyện về chính cuộc sống và suy nghĩ của người Việt ở đây. Ôi đó là thượng sách, khỏi phải đau đầu, khỏi phải viết, chỉ việc ghi chép trung thực và cam đoan với nhau: nếu công bố thì phải “Y như bản chính”.
Tôi nhẹ cả người, tấm lòng của bạn bè và sự tinh quái của một người làm phim tài liệu đã mở ra một lối đi cho tôi. Nhưng cũng mất nhiều công sức lắm, bàn thảo với các anh chị ấy nhiều lắm, cuối cùng thì toàn bộ bản thảo được chỉnh lý, đánh máy đóng bìa, chốt lại trên 200 trang, để nộp cho WJC, hai tuần trước khi tôi rời nước Mỹ.
Thế rồi, “trời xui đất khiến” thế nào, bỗng dưng bố Nguyên Ngọc lù lù tới Boston , ở cùng nhà, đi dạo, chuỵên trò, thăm hỏi linh tinh: “Thủy, cậu sang đây làm gì?” … “Thế à? Viết xong chưa?”… “Đưa tớ đọc chơi được không?”… Bố Nguyên Ngọc đọc 3 đêm, sáng dậy chưa ngồi vào bàn ăn, mắt còn đỏ vì thức khuya, bố đặt tay lên tập bản thảo và nhìn vào mắt tôi: “Thủy! Cái này nó rất cần và có ích.” Tôi không tin ở tai mình, hỏi lại: “Anh bảo sao?” Nguyên Ngọc nhắc lại: “Cái này rất cần và có ích.” Tôi nóng ran cả người. Bố này mà đã nói là tôi tin, nhưng chẳng lẽ cái “công trình nghiên cứu” dơi chẳng ra dơi, chuột không ra chuột này mà lại cần và có ích sao? Một người bạn đứng bên nghe chuyện, anh không khen chê, không bình luận mà chỉ thủng thẳng: “Tập này mà in thì cậu không về nước được! Về nước thì không bao giờ có chuyện in. Chưa có thằng nào qua đây in sách kiểu này mà dám vác mặt về nước.” Chỉ vài giây im lặng, tôi nói rành rọt với nhà văn Nguyên Ngọc: “Nếu anh bảo cái này nó cần và có ích thì chắc chắn tôi in ngay và tôi cũng sẽ về nước ngay.”
Ngay hôm sau tôi bay từ Boston qua Las Vegas đến Los Angeles. Đón tôi ở sân bay là nhà văn Hoàng Khởi Phong và Cao xuân Huy. Ngay lập tức, trên xe, với mobilephone, Hoàng Khởi Phong cùng Cao Xuân Huy đã liên lạc, thu xếp và quyết định việc in Nếu Đi Hết Biển trước khi tôi bay về VN. Tôi bảo in ấn thì phải xin phép và duyệt nữa thì chẳng kịp đâu. Hoàng Khởi Phong và Cao xuân Huy cười phá, diễu nhau: Chán quá! nước Mỹ không có Ban Tư Tưởng Văn Hóa! Ừ nhỉ, ngay cả Bộ Văn Hóa cũng không có nữa! Vậy mà tại sao người Mỹ lại ẵm về quá nhiều giải Văn hóa Nghệ thuật đến thế, cả Oscar và cả Nobel ?…Quái lạ!
Cuốn Nếu Đi Hết Biển nó ra đời lòng vòng là vậy. Chẳng có âm mưu gì đáng ngại, chẳng có tài cán gì đáng nể. Chung qui, hay dở, đúng sai gì thì do bố Nguyên Ngọc đầu têu mà thôi.
4- “CÁI NGƯỜI VIỆT MÌNH NÓ THẾ!”
Cuốn Nếu Đi Hết Biển ra đời ở Quận Cam năm 2003, ngay lập tức được lan truyền. Nói một cách công bằng rằng, ở Mỹ khá nhiều người đọc chấp nhận nó, nhưng cái kẹt của nó là: Do một người trong nước sang thực hiện. Thời điểm đó, phương tiện thông tin đại chúng của người Việt ở Mỹ không dễ dàng đồng tình với việc làm của một người trong nước, vốn sống dưới chế độ “cộng sản toàn trị”. Do vậy những người đồng tình thì im lặng; những người sốt sắng tỏ thái độ phản đối, lên án thì sẵn sàng có diễn đàn.
Tình cảnh của Nếu Đi Hết Biển ở Mỹ lúc đó cũng giống như tình cảnh của Hà Nội Trong Mắt Ai ở Việt nam vào đầu những năm 80. Ngày ấy người thích thú, tán thành Hà Nội Trong Mắt Ai thì khá đông nhưng không có quyền, không có diễn đàn; người phản đối, lên án thì rất ít, nhưng có quyền, có diễn đàn, thậm chí có cả một guồng máy. Các cụ ngày xưa nói “Trong họa có phúc” chẳng sai. Người ta tò mò tìm mua, biếu tặng nhau và gửi về Việt Nam “Nếu Đi Hết Biển” đến đoạn hết sạch. Năm 2004 Hoàng Khởi Phong lại lo việc tái bản. Tái bản sách tiếng Việt ở Mỹ cũng là chuyện hiếm vì người đọc tiếng Việt thưa thớt dần. Nếu Đi Hết Biển giống Hà Nội Trong Mắt Ai ở chỗ được mọi người quan tâm tìm xem, đọc vì nó được chửi, được đồn thổi nhiều chứ chưa hẳn vì nó hay. Cho nên “trong họa có phúc” là thế.
Chuyện phúc-họa này tôi cũng đã có lần nói với các đạo diễn điện ảnh Mỹ nhân dịp ở Viện Hàn Lâm Âm nhạc Brooklyn (BAM) – New York tổ chức chiếu phim của tôi với sự có mặt của đạo diễn đoạt giải Oscar, Peter David. Người ta hỏi tôi:
-<àm phim ở Việt nam có phải kiểm duyệt qua nhà nước không?
Tôi bảo:
-Câu hỏi vừa rồi như của một người ở hành tinh khác! Đương nhiên là có chứ!
-Tại sao?
-Làm phim ở Việt nam muốn công chiếu thì phải duyệt! Nhờ duyệt, nhờ phê phán, nhờ cấm đoán ầm ĩ mà tôi được mọi người chú ý, rồi có thể nói… tôi nổi tiếng! Đấy các ông xem, làm phim mà cứ muốn làm thế nào thì làm như ở Mỹ các ông thì làm sao tôi nổi tiếng được. Tôi thương các đạo diễn Mỹ, các vị thường phải bỏ ra đến một phần ba kinh phí để làm quảng cáo thì mới có đông người xem, mới nổi tiếng. Tôi chẳng mất xu nào, chỉ nhờ vào duyệt, vào phê phán, cấm đoán, tôi nổi tiếng.
Thưa các anh, bởi vậy các anh có thể tin là tôi rất bình thản trước những phê phán, bài xích, bôi nhọ Nếu Đi Hết Biển. Chuyện này tuyệt đối không là cái gì so với những điều tôi từng trải qua. Những chuyện từng trải trong việc làm nghề của tôi nó kinh khủng hơn nhiều, nó ly kỳ hơn nhiều, những chuyện ấy thật mà như bịa, hấp dẫn chẳng kém chuyện kiếm hiệp Tàu.
Có chăng, tôi thấy buồn cho người Việt mình. Hãy đọc lại Vũ Ánh (một phóng viên kỳ cựu của VNCH, đã từng tháp tùng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăm Italia). Trong lời bạt của Nếu Đi Hết Biển, ông đã thất vọng như thế nào về bản ngã của người Việt.
Mọi người đều biết, ở Mỹ từ lâu đã có một khái niệm “Nồi Hầm Nhừ” (Melting Pot). Nó rất có ý nghĩa với các cộng đồng nhập cư vào Mỹ. Về nghĩa bóng, tự điển tiếng Anh BBC (1993) định nghĩa Melting Pot như sau: “Một nơi, một hoàn cảnh trong đó những con người những nền văn hóa và tư tưởng hòa trộn với nhau.” (Hồ sơ Văn Hoá Mỹ. trang 63. NXB Thế giới.) Ở Mỹ, sự hòa trộn đó không diễn ra như một quá trình xâm thực, đồng hóa, áp đặt mà dựa trên nền tảng chấp nhận sự khác biệt để cùng nhau xây dựng cuộc sống văn minh và thịnh vượng. Phải chăng đó là cốt lõi, là tinh hoa của “Nồi Hầm Nhừ”. Vậy nó có tác động gì không đối với cộng đồng người Việt nam trong vấn đề mà chúng ta đang đề cập?
Theo nhiều nhà nghiên cứu xưa và nay, bản ngã con người Viêt là rất có vấn đề. Bởi vậy cụ Phan Chu Trinh mới chủ trương nâng cao dân trí là việc hàng đầu; rồi học giả Nguyễn Văn Vĩnh đã có mục “Xét Tật Mình” trên các trang báo của ông đầu thế kỷ 20, cũng là để nói vấn đề này.
Vậy phải chăng cái gốc của vấn đề không chỉ là thể chế chính trị (đương nhiên thể chế chính trị là quan trọng, tối quan trọng) nhưng vấn đề cốt lõi là bản ngã con người Việt?
Có lẽ nên kể thêm rằng, thời kỳ đó cùng qua Mỹ tham gia chương trình của WJC có anh Huệ Chi, anh Hoàng Ngọc Hiến và nhiều trí thức ở các quốc gia khác nhau. Anh Huệ Chi, một trí thức có bản lĩnh, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản, một người luôn đau đáu với những ngang trái của xã hội, lúc đó cũng bị la ó, chửi bới tồi tệ là tay sai cộng sản, là du kích văn hóa…Anh Huệ Chi chỉ mỉm cười và chăm chú vào việc học vi tính để đến ngày nay làm chủ một trang mạng được kính trọng vào bậc nhất VN: BauxiteVN. Tôi thì rất dốt về computer, may quá hồi đó cùng ở với đạo diễn Đỗ Minh Tuấn, anh là người đầu tiên chỉ dẫn cho tôi cách meo móc, chát chúa…
Hồi đó , ở Mỹ, anh Hoàng Ngọc Hiến cũng bị chửi dữ lắm, nhưng anh cũng chỉ cười khì khì, suốt ngày cậu cậu, tớ tớ. Chúng tôi quý trọng anh lắm, thăm hỏi, gặp nhau luôn, ở nhà, ở câu lạc bộ, ở hội thảo văn học Việt Mỹ vừa rồi. Chứng kiến thời thế, tình cảnh dở khóc dở cười của người Việt mình ở trong nước cũng như ở ngoài nước, anh thường lắc đầu, hạ một câu mà ai cũng khoái: “Ôi! Cái người Việt mình nó thế.”
5- «MÊ LỘ»
Thưa các anh,
Thư tới đây kể như đã dài dòng. Tuy nhiên sẽ không khách quan, không trung thực nếu lảng tránh hoặc quên đi một việc quan trọng mà có thể nhiều bạn đọc quan tâm. Đó là thái độ của cấp có thẩm quyền nhà nước Việt nam ra sao với cuốn Nếu Đi Hết Biển. Vui đáo để. Xin kể:
Sau khi tôi từ Mỹ về Hà Nội vài ngày, có một người bạn, xưa cùng đi chiến trường đến thăm tôi (anh viết văn, tôi làm phim). Anh rất OK với Nếu Đi Hết Biển và đặc biệt lưu ý xin tôi một cuốn để về chuyển cho một người, cũng là bạn thuở chiến tranh nhưng bây giờ làm thủ trưởng cơ quan Tư Tưởng Văn Hóa của Đảng. Tôi ngại quá, nói rằng đây không phải tác phẩm, tác giả gì cả mà chỉ là một điều tra xã hội học trực tiếp, chẳng hay ho gì đâu, đưa ông ấy đọc chẳng tiện tí nào. Anh bạn quyết xin và nói ông ấy đọc xong sẽ gặp tôi. Anh bạn cầm cuốn sách đi, rất chân thành. Tất nhiên tôi chẳng có thì giờ chờ đợi gặp gỡ ai cả. Nhưng, sau đó, vào đầu năm 2005, chuyện chẳng lành đã tới: Một người thương tôi đã chuyển cho tôi một văn bản có tiêu đề: «Báo cáo tổng kết tình hình Tư tưởng Văn hóa năm 2004» có đóng dấu TỐI MẬT, do một người tên là Đào Duy Quát ký. Tất nhiên trong cái báo cáo «tối mật» mà tôi bất đắc dĩ phải đọc ấy có nhiều chuyện trời ơi đất hỡi mà tôi chẳng quan tâm. Nhưng đến cái mục phê phán gay gắt cuốn Nếu Đi Hết Biển thì tôi phải đọc. Tôi đã quen đọc những bài báo, những tổng kết, báo cáo phê phán tôi rồi, không những thế trong tay tôi còn lưu giữ khá nhiều những gì trong và ngoài nước viết về tôi. Chẳng lẽ lại chụp hình bản «báo cáo tối mật» đó và đính kèm cùng bức thư này, làm thế thì cầu kỳ, sang trọng quá.
Nhưng có lẽ ơn nhờ vào sự phê phán ấy, cùng với những lời đồn thổi của Thông Tấn Vỉa Hè, Nếu Đi Hết Biển được lén lút mang về Việt nam cũng không ít, nhiều người chuyền tay đọc bản photo của bản photo và thậm chí thuê, mượn ở các quán sách vỉa hè. Một số nhà xuất bản có nhã ý muốn in. Anh Nguyễn Đức Bình, giám đốc Nhà Xuất Bản Văn nghệ từ Sài gòn ra Hà nội, tới nhà tôi thương thảo việc in Nếu Đi Hết Biển. Tôi vui vẻ tiếp anh và rằng, tôi cám ơn sự quan tâm của anh và sẽ không lấy một xu bản quyền. Nhưng có một điều kiện duy nhất: Nhà Xuất Bản phải in nguyên xi 100%, đúng từng dấu chấm dấu phảy. Anh Bình bảo chữ nào nhạy cảm quá anh sẽ cho lược bỏ và chấm chấm. Tôi nói: Có lẽ không nên như thế, bởi vì làm như vậy, các bạn và những người đã đối thoại với tôi, giúp tôi làm cuốn sách này ở bên kia sẽ ăn đòn vì bị cho rằng: Mắc mưu cộng sản.
Quả là không đơn giản.
Thưa các anh,
Tổng quát lại, nhân đây tôi cũng muốn tâm sự một điều, người Việt nam ta không biết tự bao giờ, không biết vì lý do gì, bỏ ra không biết bao công sức, thời gian, tiền bạc và tính mạng để (nói theo kiểu dân gian)…Oánh nhau!
Thật khổ! Một dân tộc thiệt thòi đủ đường, khó khăn đủ đường; chung sức chung lòng, hết tình hết nghĩa với nhau còn chẳng ăn ai huống hồ chỉ ham «oánh nhau» thì làm sao mà khá lên được. Sức lực đâu còn, ca-lo đâu còn để mà xây dựng, để mà kiến thiết nữa. Phải chăng cái chuyện «Biểu Diễn Lập Trường», cái chuyện «Mê Lộ» (tôi ngẫm nghĩ nhiều lắm về cái từ «Mê Lộ» này của Nguyễn Mộng Giác) vẫn còn là vấn nạn của người Việt chúng ta dài dài. Các thể chế chính trị và cả giới trí thức chưa thực sự quan tâm đúng mức đến vấn nạn này. Rõ ràng là bên cạnh những cốt cách tốt đẹp, thì người Việt nam ta, đâu đó vẫn tiềm ẩn không ít những thói hư tật xấu rất tệ và rất hại.
Cuối cùng cho tôi được thành tâm bày tỏ tình thân ái và lòng biết ơn chân thành với các anh vì đã có dịp được sẻ chia những điều mà tôi cho là đáng lưu tâm này.
TRẦN VĂN THỦY
Tái bút:
À quên, các anh có nhắc tôi đồng ý hoặc tự đưa Nếu Đi Hết Biển lên mạng. Về phía tôi, không có gì trở ngại, nhưng tôi vốn là người được dạy dỗ kỹ nhất ngành điện ảnh Việt nam về «ý thức tổ chức kỷ luật» nên tôi đề nghị các anh: Thứ nhất, xin phép Ban Tư Tưởng Văn Hóa. Thứ hai, đọc rồi nếu thấy cuốn sách dở quá thì ráng chịu.
Tôi nghĩ tết nhất sắp đến rồi, mong có dịp được gặp gỡ các anh, làm một bữa rượu, hi hi, ha ha cho vui cuộc đời. Ở đời, cái gì quan trọng thì quan trọng rồi nhưng xét cho cùng thì chẳng có gì là quan trọng cả. C’est la vie!

25 tháng 10, 2012

Bạn bè




Hội ngộ trưa nay tại nhà hàng Thanh Trà, Nguyễn Trãi, Q.5.
Trái sang: Nguyễn Ngọc Quận, HTS, Chu Văn Sơn (đều là những cựu binh của khoa Ngữ văn ĐH Qui Nhơn) và phu nhân Vân Anh từ Hà Nội vào Sg dự Hội thảo văn chương Tự lực văn đoàn.





24 tháng 10, 2012

Báo An ninh thế giới cuối tháng thuổng bài đăng trên Tập san Trường THPT Đồng Hới

 Trước hết mời các bạn hãy đọc bài viết sau đây đăng trên:  

THẦY GIÁO TÔI
10:00, 13/02/2008
 Hồ sơ phạm nhân nói rõ, thầy chỉ có một con trai độc nhất. Và, thầy sẽ sống độc thân, nếu bản án y án, chuyển sang Toà án, sau đó xét xử và thi hành. Bao nhiêu năm làm công tác hành pháp, đến bây giờ, tôi quả là nghẹt thở, khi đứng trước một trường hợp éo le như thế này. Tôi sẽ cứu phạm nhân, cũng là cứu ân nhân đời tôi.
Các anh chị trong Ban Biên tập Báo ANTGCT thân mến!
Trong thời đại @ hiện nay, bên cạnh bao nhiêu người tốt, sống hết mình vì mọi người, có những kẻ sống táng tận lương tâm. Họ sẵn sàng vứt bỏ, chà đạp những giá trị cao cả, đầy tính nhân văn, mà đôi khi chính họ, trong quá khứ đã góp phần làm nên, miễn làm sao thực hiện được những mục đích ích kỷ, tầm thường của mình. Trong số đó, có những người mà xã hội đã hết sức ngợi ca, đề cao, trọng vọng, đó là những người ngày ngày đứng trên bục giảng, những kỹ sư của tâm hồn.
Nhưng, các anh chị ơi, đó là số ít, rất ít. Mãi mãi trong tôi ngân vang một bài ca sư phạm, bài ca về một người thầy giáo, người thầy mẫu mực, người thầy đầy đủ những ý nghĩa thiêng liêng, cao cả của nó. Chuyện tôi kể ra đây là chuyện có thật, có thật 100%. Tin hay không là tùy các anh chị và bạn đọc, nếu như chuyện được đăng lên báo.
Bố mẹ tôi mất sớm. Ở với anh trai, trong những ngày cơm thiếu gạo khan thời bao cấp, tôi đã biết phải vươn mình lên học thật giỏi để khỏi phụ lòng anh trai và chị dâu tôi. Rồi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mở rộng ra miền Bắc, đời sống của người dân khu 4 chúng tôi càng trở nên khốn khó, vất vả. Mỗi tuần, tôi chỉ được mang đi 5 lon gạo để theo học, ở nơi trường sơ tán. Tôi và bạn bè, ngoài giờ học, lao động đã đi hái thêm rau rừng, củ rừng để cho cái dạ dày đỡ khóc than.
Rồi dạo đó, một đợt lũ do nhiều đợt mưa lớn đổ xuống, tôi không tài nào về nhà lấy thêm gạo được. Đói quay, đói quắt, đói vàng mắt, đói đến rệu rã chân tay. Khi hoàng hôn sắp phủ xuống, tôi bỗng thấy thầy chủ nhiệm đến trước lán ở, nơi sơ tán, gọi tôi mà nói: "Em ăn đi, lương khô 702 đây. Chiều qua, mới nhận được 1/3 tháng lương, thầy mua được của một chủ nhà bên đường, xóm dưới", "Ôi! Sao nhiều quá thầy?" - tôi hỏi. Thầy vỗ vai tôi: "Chẳng đáng gì", "Thôi, thầy về đây!". Rồi mùa đông đến, thấy tôi mặc áo quá phong phanh, thầy lại tìm đến, tặng tôi một chiếc áo bông vải xanh màu nước biển, rồi bảo thầy đã có một cái áo bộ đội vải Tô Châu của một người bạn vừa cho. Còn áo này, tôi mặc lấy để bảo vệ sức khỏe.
Người ta nói, thầy giáo như người chèo đò đưa khách sang sông. Không biết thầy có còn nhớ tôi hay không, nhưng khi đã vào đại học, hình ảnh thầy giáo cũ vẫn thấm đậm trong tôi, mặc dầu lúc ấy tôi và thầy cách xa nhau vạn dặm.
Mùa hè đỏ lửa 1972, trong đợt Nhà nước tổng động viên thanh niên, sinh viên ra trận, tôi cùng nhiều bạn bè rạo rực, hân hoan "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu". Tôi là chiến sĩ trinh sát của Sư đoàn 371, cấp tốc huấn luyện cơ bản tại miền Tây Lệ Thủy (Quảng Bình) để đợi ngày xuyên Trường Sơn vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Do ý thức phấn đấu tốt, sau 3 tháng, chỉ huy đơn vị đã cắt hàm binh nhì và đề bạt tôi lên làm Tiểu đội trưởng, thay cho Tiểu đội trưởng cũ đi nhận công tác mới. Một buổi sáng, Đại đội trưởng gọi tôi lên hầm chỉ huy và thông báo, đơn vị vừa được tăng quân số, tiểu đội tôi sẽ có một chiến sĩ mới bổ sung.
Trưa hôm đó, chiến sĩ mới xuất hiện trước căn hầm, với súng AK, mũ, balô con cóc mới toanh. Tôi không tin nổi mắt mình. Đứng trước tôi, chiến sĩ mới ấy, chính là... chính là thầy giáo chủ nhiệm 3 năm học cấp 3 năm xưa của tôi. "Thầy! Thầy ơi!", tôi reo lên. Thầy giáo của tôi đứng nghiêm tư thế quân lệnh dõng dạc: "Báo cáo Tiểu đội trưởng, tôi, bình nhì Hoàng Phúc, chiến sĩ mới được bổ sung, có mặt!". Trời ơi, sao lại thế này? Người thầy đáng kính năm xưa, giờ đây là chiến sĩ dưới quyền chỉ huy của tôi? Thế đấy, vì Tổ quốc thân yêu, chiến hào của chiến tranh là nơi hội ngộ bao số phận, bao cuộc đời, cả những sự trớ trêu trân trọng và đáng yêu!
Tối hôm đó, tôi và thầy ngồi bên nhau. Tôi kể cho thầy, mình là sinh viên năm thứ 2 Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm đời lính hơn 3 tháng nay. Còn thầy cho tôi biết, từ mái trường cấp 3, mới rời bục giảng để có mặt trong quân ngũ. Hai thầy trò ngồi ôn lại bao kỷ niệm thân yêu những ngày dạy và học trong các lớp học bán dương, bán âm, cách xa nhau hàng trăm mét. Mỗi lần ra chơi, thầy  bách bộ từ lớp này sang lớp khác cũng vừa đúng thời gian nghỉ giữa 2 tiết dạy. Thế nhưng, ai cũng học khá, dạy tốt. Sự có mặt của thầy ở chiến hào lần đó làm tôi càng thấm thía và trân trọng lời thầy đã từng dạy chúng tôi về "Pavel Korchagin", về "Ruồi trâu" và về câu nói của Lê Mã Lương thời kỳ ấy:                  
Nước còn giặc còn đi đánh giặc
Chiến trường xa giục giã bước quân hành.
Và "Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù".
Những ngày luyện tập trên xã Dương Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình), người thầy, chiến sĩ binh nhì trong tiểu đội của tôi vô cùng gương mẫu. Bệnh đau nửa đầu không biết từ đâu ập đến. Tôi đã đề nghị để thầy lên Trạm điều dưỡng Trung đoàn điều trị, nhưng thầy gạt đi. Ngày luyện tập, tối, tôi thấy thầy đi tìm lá ngải cứu, giã nhỏ, quấn vào khăn rồi băng lên đầu. Thầy nói, chườm như thế cho đỡ đau, để còn sức hành quân cùng đồng đội. Khi hành quân luyện tập, tôi cố ý phân công thầy mang vác nhẹ hơn, nhưng thầy không chịu. Mỗi lần như vậy, thầy đến nói nhỏ vào tai tôi: "Đừng làm thế, không lợi cho em đâu". Câu nói đã thể hiện ý chí và đức độ của thầy biết bao.
Mấy tuần sau, đơn vị chúng tôi hành quân vào chiến trường B5. Sau mấy trận thắng giòn giã, đơn vị tôi kết hợp với bộ đội địa phương tiến hành tiêu diệt cứ điểm đồi 300 ở Tân Lâm, Quảng Trị. Đang giữa lúc xung kích tiến lên thì pháo địch từ Đông Hà bắn phản kích. Nhiều chiến sĩ hy sinh, còn tôi bị đất đá vùi dưới một rãnh đất và bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trong một bệnh viện dã chiến giữa rừng. Sau mới biết, thầy giáo của tôi đã dũng cảm cõng tôi vượt qua hàng rào, lùi về tuyến sau. Nếu không có thầy lúc ấy thì có lẽ tôi đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng đất Quảng Trị, còn đâu đến ngày hôm nay.
Bị gãy một xương sườn và máu ra nhiều, sau đó, tôi được đơn vị cho ra Bắc điều trị. Thấm thoắt, chiến tranh chấm dứt, tôi lại được trở về mái trường đại học thân yêu, học tiếp chương trình. Tốt nghiệp ra trường với bằng Luật sư loại ưu, tôi được một cơ quan hành pháp tỉnh nhận vào làm việc. Phấn đấu tốt, bây giờ tôi là Viện trưởng Viện KSND với nhiều năm thâm niên. Tôi vẫn luôn nghĩ về thầy giáo tôi. Không biết thầy đã hy sinh hay đang sống ở đâu? Những cán bộ và chiến sĩ trong đơn vị cũ, giờ đây mỗi người mỗi nơi, không biết ai để hỏi tìm. Lòng tôn kính, biết ơn thầy trong tôi cứ dày lên trong năm tháng, đau đáu nỗi niềm, mong sao biết được tin tức về thầy.
Các anh chị trong Ban Biên tập Báo ANTGCT kính yêu của tôi ơi, đã nhiều lần tôi nhờ một vài tờ báo của Trung ương đăng tin ở mục "Nhắn tìm đồng đội" và mục "Thông tin quảng cáo" ở truyền hình quốc gia và địa phương để tìm thầy giáo cũ của tôi. Nhưng tin đi thì có, phúc đáp thì không.
Rồi một buổi sáng, như bao buổi sáng, tôi ngồi đọc hồ sơ bản án từ cơ quan điều tra tỉnh gửi sang. Có một hồ sơ làm tôi sửng sốt. Phạm nhân là một thanh niên 21 tuổi, can tội hiếp dâm, cướp của và giết người. Với tội danh này, theo Bộ luật Hình sự nước ta, án phạt cao nhất là tử hình thì không thể tránh khỏi. Rồi mắt tôi bỗng hoa lên, ngực đánh thình thình khi đọc những dòng chữ viết về thân nhân phạm nhân: Mẹ Nguyễn Thị Lan (chết), Cha: Hoàng Phúc - quê Thường Tín, Hà Tây, thương binh, nguyên là giáo viên THPT, đang nghỉ hưu. Tôi thét lên: "Thầy, thầy ơi". Đồng chí thư ký phòng bên nghe tiếng hét của tôi vội đẩy cửa bước sang, hỏi có việc gì thế? Tôi khoát tay, rằng, chẳng có việc gì cả, nhưng không sao giấu nổi hai mắt đang ứa lệ.
Suốt mấy hôm, tôi từ chối những cuộc mời ăn uống, vui chơi với bạn bè. Đầu óc tôi như muốn vỡ tung ra. 35 năm, thế là tôi đã tìm ra được thầy giáo tôi, ân nhân đời tôi, nhà sư phạm mẫu mực của chúng tôi, người vừa tốt nghiệp đại học ra trường đã sốt sắng tình nguyện vào khu 4 tuyến lửa ác liệt công tác để giảng dạy chúng tôi, người đã sẵn sàng lên mặt trận khi Tổ quốc kêu gọi, người đã bất chấp hy sinh vào cứu đồng đội giữa bom đạn mịt mùng...
Hồ sơ phạm nhân nói rõ, thầy chỉ có một con trai độc nhất. Và, thầy sẽ sống độc thân, nếu bản án y án, chuyển sang Toà án, sau đó xét xử và thi hành. Bao nhiêu năm làm công tác hành pháp, đến bây giờ, tôi quả là nghẹt thở, khi đứng trước một trường hợp éo le như thế này. Tôi sẽ cứu phạm nhân, cũng là cứu ân nhân đời tôi. Tôi chợt nghĩ đến các yếu tố giảm nhẹ: phạm pháp lần đầu, bị bức xúc, con của một thương binh, nhà giáo, từng cống hiến cho cách mạng. Phải rồi, tôi sẽ phê trong bản án với lời đề nghị như thế. Và, tất nhiên, tôi sẽ có những cuộc trao đổi riêng với Chánh án Tòa án.
Đang chuẩn bị viết những dòng ấy thì cửa mở. Thầy giáo Hoàng Phúc bước vào với một lá đơn trong tay. Tôi đứng dậy, bước tới, ôm lấy thầy, xúc động, nghẹn ngào. Thầy gầy, tóc bạc trắng, da nhăn, má hóp. Thầy lịch sự ngồi xuống ghế và vào chuyện ngay, không chần chừ, quanh co. Thầy cho tôi biết, thầy đang sống ở một phường ngoại ô thành phố, cách chỗ tôi làm việc không xa. Sau khi bị thương ở chiến trường trở về, thầy vẫn trở lại ngành Sư phạm và tình nguyện lên dạy ở miền núi. Vì ở đó đang rất cần giáo viên. Thầy lấy vợ muộn, cũng là một nữ giáo viên tình nguyện cùng trường. Nhưng một cơn bệnh hiểm nghèo của vợ đã cướp mất hạnh phúc của thầy hơn chục năm nay.
Nghỉ hưu, thầy về sống ở quê vợ, làm vườn, nuôi con. Nhưng, không ngờ, đứa con trai đã phản phúc, bất hiếu, làm những điều phạm pháp, phản hại đời thầy. Thầy biết tôi làm việc ở Viện KSND tỉnh và từng tìm thầy trên các báo và truyền hình ở Trung ương và địa phương lâu rồi, nhưng không bao giờ thầy lên tiếng. Bây giờ, lần đầu tiên, sau 35 năm, thầy mới tìm gặp tôi, chắc chắn sẽ là một điều nhờ vả - tôi nghĩ.
Nhưng trời ơi, các anh chị biên tập Báo ANTG Cuối tháng của tôi ơi, bạn đọc thân mến của tôi ơi, trong đơn, thầy không nói điều đó mà chỉ vẻn vẹn mấy chữ: "Tôi đề nghị pháp luật xử án con trai tôi thật bình đẳng, nghiêm minh, đúng luật, không nương nhẹ để làm gương răn đe, giáo dục những kẻ khác, nhằm góp phần xây dựng xã hội ta ngày một trong sáng, lành mạnh và cao đẹp". Ký tên.
Tôi phải làm gì đây, thưa các anh chị trong Ban Biên tập và bạn đọc? Thời gian chuyển hồ sơ phạm nhân sang cơ quan tố tụng sắp hết. Hãy cho tôi một lời khuyên. Khi tiễn thầy ra về, trước mắt tôi, thầy Hoàng Phúc luôn sừng sững hình ảnh của một nhà sư phạm đáng yêu, một kỹ sư tâm hồn khả kính.
Tất cả những ai muốn chia sẻ với tâm sự của người viết lá thư trên có thể gửi thư theo địa chỉ email:chuyenkhotin@cand.com.vn
  Hải Thanh (Luật sư, Viện trưởng Viện KSND)

Xem nguồn gốc ở đây:
 Còn đây là bài viết của HTS  đăng trên đặc san số kỉ niệm 40 năm thành lập Trường THPT Đồng Hới, xb tháng 3-2006, nghĩa là trước bài đăng trên ANTG 2 năm; bài viết này trước đó cũng đã đăng trên báo Quảng Bình (số nào thì tôi không nhớ):

 NGƯỜI THẦY CÙNG QUÂN NGŨ               
Đó là vào năm 1972 đầy nắng và gió lào khi tôi còn là lính trinh sát của sư đoàn 341 đang huấn luyện ở vùng miền tây Lệ Thủy (Quảng Bình) để đợi ngày vào Nam đánh giặc. 
Trong một đợt tập huấn ở sư đoàn bộ, vào giờ nghỉ trưa, tôi bỗng gặp được thầy giáo dạy toán của mình khi còn học lớp 9C (năm học 69-70) trường cấp 3 Đồng Hới. Đó là thầy Phan Chương , quê ở Hà Tĩnh. Thầy trò bất ngờ gặp nhau giữa thao trường Dương Thủy, đều trong những bộ quân phục vải Tô Châu chưa mất nước hồ, chẳng hiểu sao cả tôi lẫn thầy đều mừng mừng tủi tủi. Khi biết tôi là sinh viên năm thứ 2 của khoa Văn, Trường ĐHSP Vinh vừa rời ghế giảng đường để nhập ngũ được vài tháng nay, thầy cho tôi biết là thầy cũng vừa rời bục giảng của trường cấp 3 để lên đường. Và bây giờ thầy đang là chiến sĩ của trung đoàn pháo binh cùng trong biên chế sư đoàn với tôi.
Tôi lấy làm hãnh diện với ý nghĩ vậy là cả hai thầy trò của trường cấp 3 Đồng Hới cùng có mặt trong đội hình của một sư đoàn thời đánh Mĩ.
Tuy cùng là tân binh như tôi nhưng là người đã từng trải, thầy ghé tai tôi nói thầm là sư đoàn mình thế nào rồi cũng”vào”, mà “vào” sâu lắm, nghe đâu tận B2. Rồi thầy cùng tôi ôn lại những kỉ niệm về trường Đồng Hới thân yêu, nơi thầy đã có nhiều năm dạy toán và cũng là nơi tôi đã mài mòn đũng quần học sinh suốt mấy năm trời. Đặc biệt là những năm trường sơ tán ở Cồn Chùa. Hình ảnh những lớp học bán âm bán dương, lớp này cách lớp kia hàng  trăm mét, khi nghe kẻng báo hết tiết vang lên, các thầy cô phải đi vội đi vàng từ lớp này qua lớp khác cho kịp giờ vào tiết học mới. Cứ thế, chúng tôi ngồi nhắc với nhau về những thầy cũ, bạn cũ của trường. Những thầy Cán dạy văn, thầy Trình dạy toán mà lũ học sinh chúng tôi đã sáng tác ra một thành ngữ mới là “văn Cán toán Trình” để ca ngợi sự nổi danh của hai thầy trong giảng dạy không chỉ trong trường mà cả khắp toàn tỉnh Quảng Bình lúc bấy giờ. (Nhắc lai chuyện này, xin mạn phép thay mặt cho các bạn đồng môn của trường Đồng Hới mong được các thầy đại xá về sự vô lễ của học trò đối với các thầy ngày ấy). Rồi những thầy Khả, cô Nga dạy hóa, thầy Đoá hiệu trưởng, cô Xuyến dạy văn…  đều được nhắc đến với những kỉ niệm ấm lòng.
Trong câu chuyện, thầy Phan Chương còn hỏi tôi nhiều về những bạn học cùng lớp hoặc cùng khóa với tôi ngày ấy, nhất là những bạn học giỏi như hai anh em họ Đỗ là Dũng và Quốc (Dũng sau này cũng nhập ngũ và đã hi sinh trong chiến đấu, còn Quốc là giảng viên của ĐH Bách khoa Tp.HCM), hai anh em Tâm và Sự (Tâm vào ĐHSP cùng khóa với tôi, tốt nghiệp về dạy toán ở ngay trường Đồng Hới, còn Sự có năng khiếu về vẽ, học ở trường Kiến trúc Sài Gòn, trở thành kiến trúc sư); hai chị em Hoàng Sơn và Hoàng Hà (Sơn học ở Hunggary về công tác tại ủy ban KHKT Tp.HCM, Hà là Bs ở Bv Trung ương Huế), kể cả những bạn có tên khá đặc biệt kiểu như Lê Thế Giới (hiện dạy ở ĐHBK Đà Nẵng)v.v.  Bỗng thầy quay sang hỏi tôi có biết Phương Thảo đang học ở đâu không? Trời ơi, cô bé giỏi văn hay hát bài Quê em miền trung du, được xem là con cưng của thầy Lương Duy Cán, nhà Lộc Đại học sau tôi một lớp , có mái tóc dài óng ả và chiếc răng khểnh vô cùng duyên dáng thì làm sao mà một thằng si tình như tôi lại không biết chứ. Tôi cho thầy hay là PT cũng thi đậu vào khoa Văn trường Vinh, học sau tôi một khóa. Chỉ tiếc một điều là khi nàng nhập trường làm Sv thì cũng là khi tôi xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao. (Sau chiến tranh tôi mang ba lô trở lại trường đại học thì Thảo đã là giảng viên cuả trường CĐSP Huế- Bình Trị Thiên).
Thời gian ngồi với nhau chỉ hơn tiếng đồng hồ, vậy mà thầy trò chúng tôi đã nói được với nhau bao nhiêu là chuyện. Và kì lạ thay, tất cả đều là chuyện về trường Đồng Hới của mình với tất cả nỗi nhớ thương da diết về bao kỉ niệm mà cả hai thầy trò đều bổi hổi bồi hồi khi nhắc đến.  
Chia tay, thầy Phan Chương trở về trung đoàn pháo lúc đó đang đóng quân ở Trường Thủy, còn tôi phải đi gấp vào Vĩnh Linh để tham gia cuộc tập trận lớn của sư đoàn trên bờ biển Vĩnh Thái. Nắm chặt tay người thầy giáo cũ, tôi thấy ngùi ngùi ở trong lòng, không biết có còn dịp nào gặp lại thầy nữa không. Đến lúc này thầy mới cho tôi biết là sức khỏe của thầy không được tốt. Bệnh đau nửa đầu thường xuyên hành hạ thầy. Đêm nằm ngủ thầy phải lấy lá ngải cứu buộc lên đầu cho đỡ đau. “Có vậy mình mới theo kịp anh em trong đơn vị”.  Nghe thầy nói mà tôi thấy thương thầy vô cùng. Sức tôi thì trai trẻ, còn thầy tuổi đã lớn rồi lại đau yếu. Vậy mà thầy lại là người đã động viên tôi bằng một câu nói giản dị: “Gắng lên em nhé!”.
Rồi đúng như thầy phán đoán. Cả sư đoàn tôi hành quân vào mặt trận đánh nhau với địch ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ cho đến ngày chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, tiến vào giải phóng Sài Gòn. Sau 30 tháng 4, tôi được điều về làm công tác quân quản ở quận 3, nhiều lần gặp các cán bộ, chiến sĩ trung đoàn pháo lên, tôi đều có hỏi thăm về thầy Phan Chương nhưng không ai biết. Và cả sau này nữa, khi được phân công về giảng dạy ở ĐHSP Qui Nhơn, gặp lại những bạn từng là học sinh Đồng Hới đang giảng dạy ở trường này như Hoàng Tấn Quả, Nguyễn Quốc Tuấn… chúng tôi đều hỏi thăm nhau về các thầy giáo cũ, trong đó có thầy Phan Chương, nhưng cũng không có ai biết về thầy, người thầy giáo cũ đã có một thời là đồng đội của tôi.
Chẳng biết thầy có còn nhớ đến tôi không, nhưng tôi thì vẫn nhớ mãi về thầy và cái lần gặp gỡ bất ngờ ở thao trường Dương Thủy ấy. Cũng như tôi vẫn còn nhớ mãi lời dặn của thầy: Gắng lên em nhé!  


RỒI BÂY GIỜ SO SÁNH NHỮNG CHỖ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HAI BÀI VIẾT:
Tạm gọi bài trên ANTGCT là bản A; bài của HTS  là bản B
1/ Bản A: Mùa hè đỏ lửa 1972, trong đợt Nhà nước tổng động viên thanh niên, sinh viên ra trận, tôi cùng nhiều bạn bè rạo rực, hân hoan "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu". Tôi là chiến sĩ trinh sát của Sư đoàn 371, cấp tốc huấn luyện cơ bản tại miền Tây Lệ Thủy (Quảng Bình) để đợi ngày xuyên Trường Sơn vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam
    Bản B:   Đó là vào năm 1972 đầy nắng và gió lào khi tôi còn là lính trinh sát của sư đoàn 341 đang huấn luyện ở vùng miền tây Lệ Thủy (Quảng Bình) để đợi ngày vào Nam đánh giặc.

2/ Bản A:  mình là sinh viên năm thứ 2 Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm đời lính hơn 3 tháng nay. Còn thầy cho tôi biết, từ mái trường cấp 3, mới rời bục giảng để có mặt trong quân ngũ. 
              Bản B:  tôi là sinh viên năm thứ 2 của khoa Văn, Trường ĐHSP Vinh vừa rời ghế giảng đường để nhập ngũ được vài tháng nay, thầy cho tôi biết là thầy cũng vừa rời bục giảng của trường cấp 3 để lên đường.
3/ Bản A: Hai thầy trò ngồi ôn lại bao kỷ niệm thân yêu những ngày dạy và học trong các lớp học bán dương, bán âm, cách xa nhau hàng trăm mét. Mỗi lần ra chơi, thầy  bách bộ từ lớp này sang lớp khác cũng vừa đúng thời gian nghỉ giữa 2 tiết dạy.
Bản B:  thầy cùng tôi ôn lại những kỉ niệm về trường Đồng Hới thân yêu, nơi thầy đã có nhiều năm dạy toán và cũng là nơi tôi đã mài mòn đũng quần học sinh suốt mấy năm trời. Đặc biệt là những năm trường sơ tán ở Cồn Chùa. Hình ảnh những lớp học bán âm bán dương, lớp này cách lớp kia hàng  trăm mét, khi nghe kẻng báo hết tiết vang lên, các thầy cô phải đi vội đi vàng từ lớp này qua lớp khác cho kịp giờ vào tiết học mới.
4/ Bản A:  Bệnh đau nửa đầu không biết từ đâu ập đến. Tôi đã đề nghị để thầy lên Trạm điều dưỡng Trung đoàn điều trị, nhưng thầy gạt đi. Ngày luyện tập, tối, tôi thấy thầy đi tìm lá ngải cứu, giã nhỏ, quấn vào khăn rồi băng lên đầu. Thầy nói, chườm như thế cho đỡ đau, để còn sức hành quân cùng đồng đội.
Bản B:  Bệnh đau nửa đầu thường xuyên hành hạ thầy. Đêm nằm ngủ thầy phải lấy lá ngải cứu buộc lên đầu cho đỡ đau. “Có vậy mình mới theo kịp anh em trong đơn vị”.
5/ Bản A: Những ngày luyện tập trên xã Dương Thủy, 
  Bản B: Thầy trò bất ngờ gặp nhau giữa thao trường Dương Thủy,
6/ Bản A: Không biết thy có còn nh tôi hay không,
    Bn B:  Chẳng biết thầy có còn nhớ đến tôi không,

   Bài đăng ở trang 55...


   Trên số đặc san này, 3-2006