30 tháng 1, 2013

Tự sướng một chút

Tại Caravell Hotel ngày 26 tháng 1  năm 2013


HTS với anh Nguyễn Tiến Trưởng khoa Mác Lê

28 tháng 1, 2013

Điều ước cuối cùng


Tôi có quen một cậu học trò thành đạt.
Nghe câu này có vẻ không ổn. Đã là thầy thì tất phải biết  trò, sao lại nói là quen. Thực tế một ông thầy dạy vài chục năm có khi trong đầu may lắm cũng chỉ nhớ được vài chục học trò, còn lại là quên hẳn. Thỉnh thoảng đi đó đi đây, chợt có một người lạ tiến lại gần hỏi: Thầy có nhớ em không ạ. Rồi tự giới thiệu em học khóa nào, lớp có những bạn nào, hồi đó thầy dạy em môn... Sau đó thì mới ồ à và nhớ lại.  Đó là chuyện bình thường. Như tôi giờ vẫn nhớ người thầy đầu tiên dạy tôi lớp vỡ lòng là cô giáo tên Na ở Đồng Phú. Giờ ra chơi cô bắt cả lớp từ trai đến gái đều phải tập múa. Nhờ đó mà tôi cũng biết được vài điệu múa cho đến ngày nay. Chẳng hạn điệu múa Một đàn bướm bướm bay… hai tay xòe ra chấp chới. Nhưng chắc chắn là cô giáo Na thì không có chỗ cho tôi trong bộ nhớ của cô. 
Trở lại với cậu học trò thành đạt. Anh này thành đạt gần như trên toàn bộ các mặt của cuộc đời một con người. Có học vị tiến sĩ, dù là Ts của một cái ngành độc nhất vô nhị trên thế giới, chỉ có ở Vn: Ts chuyên ngành xây dựng đảng; chức vụ là tỉnh ủy viên giám đốc trường chính trị của tỉnh – chức này cũng tương đương trưởng ban đảng hoặc giám đốc sở; vợ con gia đình êm ấm; có biệt thự lại có xe hơi riêng ngoài xe công đưa đón hàng ngày. Cuộc đời vậy nghĩ cũng là quá ổn cho một anh vừa là trí thức vừa là quan chức lại cũng vừa là phong lưu khá giả. Tưởng không mong gì hơn nữa.
Tôi quen lại cậu học trò trong một lần đi họp gì đó ở Hà Nội. Đang ăn tối với mấy người nữa trong một nhà hàng của một khách sạn, chợt có một ông ở bàn bên cạnh đi tới chào và hỏi như ở trên: Thầy có nhớ em không ạ. Rồi làm quen lại với nhau. Thầy trò nhận lại nhau từ đó. Thì ra anh học trò cũng ra Hà Nội họp và cùng ở chung khách sạn với tôi.
Ăn uống xong, anh mời tôi ghé phòng anh uống nước nói chuyện cho vui. Anh kể về cuộc sống từ ngày ra trường. Mới đó mà đã hơn hai chục năm rồi.  Ban đầu anh cũng đi dạy văn cho một trường cấp 3 như bao bạn bè khác. Rồi anh được cử làm bí thư đoàn trường, rồi trúng chấp hành tỉnh đoàn; sau lên phó bí thư,  rồi bí thư tỉnh đoàn. Đã lên ghế này thì hiển nhiên cơ cấu vô tỉnh ủy. Mà ở nước ta, vô lọt tỉnh ủy là coi như đã chắc chân hàng cán bộ cốt cán, tệ nhất cũng sẽ làm giám đốc một sở hoặc tương đương. Vì thế, với cái mác tỉnh uỷ viên, sau khi hết tuổi làm cán bộ đoàn, anh được điều về trường đảng tỉnh làm giám đốc. Ở ghế này, nhờ liên kết với phân viện của học viện NAQ để mở các lớp đào tạo tại chức cao cấp LLCT cho cán bộ tỉnh, anh kết hợp làm nghiên cứu sinh  để thành Ts XDĐ như nói ở trên...  
Khi câu chuyện hai thầy trò đã thân tình tôi mới ướm hỏi:
 - Mình thấy cuộc đời ông như vậy là quá ổn, vậy ngoài chuyện sự nghiệp phấn đấu với chức quyền tiền bạc ra, ông còn có ước mơ gì nữa không?
Nghe tôi hỏi, anh học trò bỗng sôi nổi hẳn lên:
 - Còn chứ thầy.
 – Gì vậy?

 - Heroin thầy ạ.
 – Cậu không đùa đấy chứ.
 – Em thề với thầy là em nghiêm túc.
Rồi anh học trò giải thích: Có thể nói mọi thứ khoái lạc trên đời này em đều đã có và nếm trải hết rồi thầy ạ, từ học hành địa vị danh vọng chức quyền tiền bạc đến các thú vui thuộc về con người. Chỉ còn một thứ hê rô in là em chưa biết vì không dám. Người ta bảo cái gì trên đời này cũng đều có thể nếm thử nhưng với heroin thì đừng bao giờ thử dù chỉ một lần nên em không dám. Nghe các nhà văn tả hút một điếu heroin sẽ phê như được lên tiên, em tò mò lắm.
Có lí. Chính tôi cũng đã từng có ý nghĩ như thế.
Hồi còn ở Bình Định tôi chơi rất thân với một ông bạn vong niên hơn tôi cả chục tuổi, là một đồng nghiệp – nhà báo Huỳnh Hiến. Ông này rất lịch lãm và từng trải. Từng lăn lóc với đủ mọi ngóc ngách của cuộc sống, ông kể thời trẻ mới tốt nghiệp khoa văn ĐH Tổng hợp Hà Nội, được phân về làm phóng viên Đài TNVN, chuyến công tác đầu tiên của ông là lên Lào Cai viết bài về đồng bào vùng cao. Ông được chủ tịch xã mời về nhà ăn ngủ. Đêm mùa đông vùng biên giới rét tê người không ngủ được. Ông chủ nhà thấy vậy kêu dậy châm cho một mồi thuốc vào cái nỏ điếu bảo:
- Thằng cán bộ mày hút đi cho ấm, thuốc phiện tao mới hái ngoài  nương về phơi khô đấy.  
Trong cái lạnh tái tê của  đêm đông, tiếng ông chủ nhà nghe không rõ lắm, anh chàng PV trẻ liền cầm nỏ điếu thuốc phiện lập cập rít một hơi dài. Ông bạn Huỳnh Hiến kể: Rít xong, ông không thấy khói nhả ra đằng mồm hay mũi như người ta hút thuốc lào mà nó trôi tuột vô rồi cuộn cuộn ở trong bụng và nằm luôn trong đó. Một lúc thì thấy người nôn nao, lâng lâng rồi không biết gì nữa. Ông tỉnh dậy sau đó ba ngày. Ba ngày không ăn không uống nằm say điếu thuốc phiện đầu đời. Mở mắt ra thấy ông chủ nhà ngồi bên nhe hàm răng vẩu ám khói vàng khè nhìn ông cười cười với bát cháo trắng bốc khói. Từ đó đến nay ông vẫn chưa dám thử lại một lần nữa cái thứ mà người ta gọi là nàng tiên nâu đó.
Nghe ông đồng nghiệp đàn anh kể mà tôi cũng thấy hấp dẫn. Giá mà mình cũng được một lần như thế nhỉ.
Bây giờ lại nghe tâm sự của cậu học trò thành đạt thấy cậu ta cũng có lí. Tôi hỏi:
- Vậy ông có định thực hiện ước mơ heroin đó không?
- Có chứ thầy. Đợi đến khi thật già lão, sắp chết rồi, em sẽ chuẩn bị sẵn một điếu heroin và hút. Lúc đó cũng chẳng ai can và cũng chẳng còn thời gian sống để mà nghiện ngập nữa. Hút xong lăn đùng ra chết cũng được. Điều ước cuối cùng của em đấy.
Hay!

"Không có tội mới lạ"


 Nhàn đàm của Chử Anh Đào            
                                              

          Chuyện ăn uống nhậu nhẹt nhiều khi cũng là bởi nhu cầu công việc. Nhưng phải tự thừa nhận xưa nay tôi là thằng phàm ăn tục uống. Từ nhái ôm măng của người Thái Sơn La đến cá tra vừa nhảy lên trong các hầm cá để đớp lấy cái chất thải của con người từ những nhà cầu rất đặc biệt miền Tây Nam bộ; từ chuột nhà nướng nấu canh, thịt bò sống trộn với tiết ở những làng Dẻ- Triêng vùng ĐăkgLei Kon Tum đến lá mì, mít non nấu với bao tử trâu bò ở Pơ Tó, Koong Chơ Ro…tôi xơi tuốt tuồn tuột. Có người quả quyết: Bất kể con gì nuôi trong nhà đều nhậu được, kể cả…Về khoản này, tôi là ngoại lệ. Chưa từng ăn mèo, chó nuôi trong nhà bao giờ. Còn nhớ hồi học lớp 5 hơn bốn chục năm về trước, biết chiều hôm ấy bố sẽ mổ cậu Vàng, trước lúc đi học, tôi còn mua và đút cho nó ăn hai hào kẹo bạc hà và chiều tối về kiên quyết không đụng đũa vào xương thịt đang thơm lừng của người bạn thân của mình…Nhưng có người lại khác. Ông Dục, bạn vong niên của tôi là một ví dụ. Nhà ông nuôi chó mèo là để giết thịt. Cả nhà đều quan niệm như thế. Ông bảo cả vùng ông ở ngoài kia như thế. Vừa rồi cưới con cháu, nhà làm hết hơn tạ rưỡi chó. Thỉnh thoảng hễ ông thông báo rằng mới xin được một con chó, mèo con thì ắt hẳn sau đó sẽ có một “ nhân vật” bị tế thần. Nhưng trước khi hành quyết, hình như để lương tâm đỡ cắn rứt, ông thường kết tội chúng, kết tội nặng đến mức từ chỗ mọi người tưởng chúng là những con vật hiền lành thành kẻ thù không đội trời chung, cần loại bỏ vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội. Đại khái chó thì mõm đen, đuôi đốm; chỉ sủa chủ nhà còn vẫy đuôi rối rít với khách lạ; chỉ đòi ăn cơm với thịt mà không đụng mồm đụng miệng dọn vệ sinh cho thằng cháu nội ba tuổi…Mèo thì ăn vụng; làm tình gào thét ầm ĩ trên mái nhà, phóng uế bừa bãi; biến đối thủ thành đối tác, mời chuột cùng ăn chung đĩa…
          Chiều nay cũng vậy. Ông Dục đột xuất điện thoại: “ Đúng năm giờ kém mười lăm có mặt tại nhà tôi.” Tôi biết tử tội này đã bị kết án từ hơn nửa tháng trước. Hiềm nỗi chưa có “ thuốc độc”, chưa tập hợp được đầy đủ các đồng chí (những người cùng chí hướng, sở thích) nên sự sống của nó được kéo dài tới giờ. Tôi tới, ông khoe: “ Con này hai kí rưỡi. Chưa đẻ lứa nào. Thịt thơm và mềm như trinh nữ”(!) Cũng chuệch choạng chừng nửa tiếng sau mới đông đủ. Vừa cụng li rượu, ông con trai tôi tới tìm, bảo bố về ngay, nhà có việc. Tôi tiếc rẻ đứng lên. Ngồi sau quí tử, tôi bảo: “ Bác Dục làm thịt mèo. Con này tội to lắm!” Không ngờ ông con độp lại ngay: “ Con nói bố bỏ quá cho, khi các bác, các chú đã “ lên cơn” rồi thì con mèo không có tội mới là lạ!”
          Nhận xét đó cũng là lời bình luận. Chẳng lẽ một số phận được định đoạt chỉ vì một cơn ngẫu hứng?
                                                                   C.A.Đ

Sáo ngữ


                                       Chử Anh Đào

          Gia đình ông là gia đình văn hóa, ở ngay ngã ba có cái cổng phải đoán mãi mới ra bởi nó đã bong tróc, chữ nghĩa rơi rụng tả tơi: “ khu phố văn hóa cấp thành phố”. Ông bà là cán bộ nhà nước đã hưu. Tổ ấm ấy, giờ tam đại đồng đường, nề nếp, kỉ cương bền vững. Tôi đến nhà ông hai lần vì công việc, đúng lúc gia đình sắp ăn cơm. Từ phòng khách, tôi nghe giọng ông  oang oang dưới bếp : “ Tuần qua tình hình Việt Nam và thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn không từ một thủ đoạn nào để chống đối ta, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, ngăn trở công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của ta. Trong nước thì lạm phát gia tăng, giá cả tiếp tục leo thang. Gia đình ta cần xác định nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài là triệt để tiết kiệm. Tất cả mọi thành viên, không có vùng cấm. Ai vi phạm sẽ kiên quyết xử lí…À mà có một tin vui. Tuần trước tôi đã có dịp gặp ông xui ở Koong Chơ Ro. Hai bên quán triệt và tin tưởng sâu sắc rằng tình nghĩa thông gia là muôn năm xanh tươi, đời đời bền vững. Hai bên nhất trí sẽ tiếp tục nâng mối quan hệ này lên tầm cao mới. Sắp tết Nguyên đán, tôi đã trân trọng kính mời gia đình ổng lên chơi. Ổng đã vui vẻ nhận lời…Nào mời các đồng chí ăn cơm.” Về sau tôi mới biết một trong những “ nét đẹp văn hóa” riêng của gia đình này là “ giao ban cuối tuần” vào các chiều thứ bảy.Trộm nghĩ nó vừa tiện ở chỗ đông đủ thành viên, vừa bất tiện nhỡ ai có lỗi gì đấy mà đem ra phê bình và tự phê bình thì bữa ăn sẽ mất ngon. Nhưng đặc biệt ấn tượng, ấn tượng tới mức chỉ nghe qua một lần mà tôi đã thuộc. Từ ngữ vừa lạ vừa quen, như loanh quanh đâu đây trên ti vi, đài, báo.
          Lại có anh bạn giáo viên người dân tộc. Người này rất tài giỏi: viết sách, làm từ điển…và sống ít nói, chân thật như đất, như nước của cộng đồng mình. Nhưng tôi thực sự ngạc nhiên khi một hôm gặp nhau, anh ta chào hỏi bằng câu : “ Ngọn gió nào đã đưa thầy đến tiện xá của em?”. Thoạt đầu tôi tưởng anh nhại cách nói lai Tây, cầu kì, xa lạ với người Việt. Nhưng tiếp tục những câu giao tiếp thời gian sau đó với những câu “ Thầy hãy cam đoan là đã tắt điện trước khi ra khỏi phòng”, “ Thầy có thể cho em xin tí lửa được không?”, “ Chúc thầy ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp”… thì tôi có quyền nghĩ: Ông này bị bệnh thật rồi!
          Cũng liên quan tới chuyện này là chất lượng học văn của học sinh hiện nay.Yếu kém có nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân gây hậu quả trầm trọng là tiêu diệt cảm thụ, cảm xúc cá nhân để răm rắp tuân theo ý thầy, ý sách giáo khoa.( Đến nay tôi còn ngượng vì những kết luận trong các bài tập làm văn cấp II, III của mình: “ Ngày nay còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường em nguyện ra sức học tập và tu dưỡng để sau này…cho Tổ quốc Việt Nam.” Đồng lõa với tiêu diệt cảm xúc cá nhân là các “ Bài văn mẫu”. Các “ bài văn mẫu” này đã gây ra không biết bao nhiêu tình huống dở khóc dở cười trong bài làm của thí sinh. Còn nhớ mấy năm trước, khi trường CĐSP Gia Lai còn thi tuyển đầu vào… Trong sách văn mẫu khi phân tích bài “ Cảnh chiều hôm” có câu mở đầu: “ Xưa nay trong thơ văn đã nói rất nhiều về hoa…” Đến khi phân tích bài “ Mộ” ( Chiều tối) một thí sinh đã viết: “ Trong thơ văn xưa nay đã nói rất nhiều về chim. Chim của Nguyễn Du thì “ thoi thóp về rừng”, chim của Bà huyện Thanh Quan ho ra máu, chim của Xuân Diệu thì “ bờ ruộng cánh phân vân”, chim của Chế Lan Viên “ đeo vòng cườm trên cổ”, Chim của Khương Hữu Dụng “ gáy sáng cả giường” còn chim của BH của chúng ta “ mệt mỏi về rừng tìm chốn ngủ.”
          Nhận xét:
 - Ba cách sử dụng ngôn ngữ trên là lệch chuẩn, mang đến cho người đọc, người nghe cảm giác khôi hài, nhàm chán vì sáo ngữ.
  “ Sáo ngữ” ( ):“ Bắt chước, lấy văn tự của người khác hay nói theo đuôi người ta, sáo ngữ là những câu nói đã thành lối( mòn)” ( Từ điển Hán- Việt)
 - Cùng với sự tìm hiểu về đối tượng, nội dung, mục đích giao tiếp để người nói lựa chọn những phương tiện ngôn ngữ thích hợp mà trong đó sự chân thật cần đặt lên yếu tố hàng đầu./.
                                                                   C.A.Đ

25 tháng 1, 2013

Lòng tốt

Một xã hội văn minh là một xã hội mà ở đó lòng tốt trở nên thừa thãi. Câu này tôi đọc được vào năm 1976 trong thư viện Đại học Vinh từ một tập tài liệu in roneo giấy đen như ctứ chó một sản phẩm điển hình của thời đại bao cấp xhcn. Tập tài liệu  có tên là Luận cương đạo đức học với tác giả là Thầy Hoàng Ngọc Hiến. Thầy HNH khi đó vừa rời công việc giảng dạy môn Văn học Nga Xô viết cho khoa Văn ĐHV để chuyển ra Hà Nội. Bây giờ, khi mà Thầy đã về với thế giới người Hiền thì tất cả giới có học đều đã gọi Thầy là GS.TS. HNH dù Thầy chưa hề được phong ngay cả cái gọi là PGS.
Giai thoại về Thầy Hoàng Ngọc Hiến thì nhiều lắm trong giới giảng viên đại học. Chẳng hạn, dù bản thân là người được nhà nước cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh và bảo vệ luận án PTS trở về, nhưng thầy đã nói một câu bất hủ: Nếu dắt một con bò từ Vn sang Nga thì 4 năm sau sẽ dắt về lại Vn một PTS.
 Một chuyện khác: Hồi dạy ở Khoa Văn ĐHSP 1 Hà Nội, do bao cấp khổ sở quá, bất chấp qui định cấm, gia đình thầy bất đắc dĩ phải chăn nuôi heo ngay  trong nhà tắm của tầng 4 khu nhà tập thể để tăng thêm thu nhập có thể sống qua ngày đoạn tháng. Khi lãnh đạo trường đi kiểm tra lập biên bản    đã ghi: Gia đình ông HNH đã nuôi heo trong nhà tập thể... Thầy phản bác thẳng thừng và yêu cầu    ghi lại cho đúng: Heo đã nuôi gia đình ông HNH...  
Trở lại với luận điểm của Thầy Hoàng Ngọc Hiến về lòng tốt trong một xã hội văn minh của chuyên đề Luận cương đạo đức học, nói thực lòng với đầu óc trong trẻo và một cái bụng rỗng tuếch lúc nào cũng nghĩ đến cơm ăn và áo mặc của những năm sau chiến tranh, khi mà xã hội đang vô cùng tối tăm mịt mù với hàng mớ lí thuyết vô bổ về làm chủ tập thể, triệt tiêu cá nhân, tôi đã ko thể  lĩnh hội được hết ý nghĩa sâu xa tư tưởng trên của Thầy HNH.
Tại sao lòng tốt lại có thể trở nên thừa thãi được khi mà người với người quanh ta lúc ấy và kể cả bây giờ cứ như là chó sói tranh nhau từng miếng ăn, giết nhau đưa nhau vào tù có khi chỉ vì một cái ghế.
Vào năm ngoái, cư dân mạng từng xôn xao về một câu chuyện lạ đăng trên hệ thống blog ko lề trái cũng ko là lề phải  về những chú công an giao thông ở Đà Nẵng. Chuyện kể về CSGT Đà Nẵng khi thấy người tham gia giao thông đi vào đường cấm thì thổi còi gọi lại nhưng ko phải là để lập biên bản phạt mà là để hướng dẫn cho người ta đi sao cho đúng. Một việc làm đúng ra là rất đỗi bình thường đã trở nên xa lạ thậm chí là kì lạ của xã hội khi mà CSGT của ta đều đã trở thành những anh hùng núp  ráo trọi.
Là người làm báo và cả dạy học, tôi cũng từng phản biện ráo riết về những bài báo kiểu gương người tốt việc tốt. Chẳng hạn như một thủ quĩ ngân hàng là đảng viên  trả lại tiền thừa cho khách hàng khi giao dịch.  Chỉ vậy thôi mà là gương sáng đấy. Thì chã nhẽ nhặt được tiền thừa tiền rơi của người khác lại điềm nhiên bỏ túi. Với người thường đã là chuyện ko thể huống chi lại là với người đảng viên CS trong sáng chói chang vằng  vặc như ánh mặt trời.
Đến khi nào thì những chuyện hiển nhiên đồng nghĩa với điều tốt ấy sẽ trở nên bình thường và thừa thãi trong xã hội như Thầy HNH đã viết.
Khi con người ta đã quen sống trong một xã hội đầy dẫy điều xấu đến mức nó trở nên điều bình thường thì điều tốt mà thực ra là điều bình thường trở nên lạ kì cũng ko có gì là lạ.  
Và cái xã hội tốt với những tấm lòng tốt sẽ trở nên thừa thãi mà Thầy HNH đã viết trong Luận cương đạo đức học vẫn đang là mơ về nơi xa lắm.

24 tháng 1, 2013

Nếu đi hết biển...

 Chủ nhật rảnh bèn lục lọi linh tinh giá sách, thấy trong những tập tài liệu cũ cuốn Nếu đi hết biển của đạo diễn Trần Văn Thủy. Lật đọc lại từng trang sách cũ chợt nhớ lại một câu nói giản dị như chân lí của Trần Văn Thủy…
… Hà Nội, cách đây đã mấy năm, trong một liên hoan TV, tôi cùng người học trò cũ là Trương Vũ Quỳnh, cựu Sv khoa Văn QNU hiện làm Pv của vtv Đà Nẵng và đạo diễn Trần Văn Thủy ngồi café ở quán góc sân Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô (bây giờ người ta không hiểu vì lí do gì đã bỏ mất chữ Việt – Xô, hay là sợ xấu hổ khi nhắc đến một thành trì của phe xhcn đã lặn không sủi tăm, chỉ còn lại cụt lủn là Cung VHHN, mà không biết là hữu nghị với ai). Chúng tôi đến trước chọn bàn và ngồi đợi. Khi thấy đạo diễn Trần Văn Thủy bước vào sau đó không lâu, nhiều người trong quán đều kính cẩn chào và bắt tay tác giả của Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế lừng danh.
Ông quen Quỳnh trong một chuyến vào làm phim tài liệu ở Đà Nẵng, lần đó Quỳnh là người đi theo giúp ông mấy việc trong đoàn làm phim. Trần Văn Thủy cho biết là Ông mới đi Mĩ 3 tháng về có nhiều chuyện lắm rồi lấy trong cái túi vải đeo bên mình cuốn Nếu đi hết biển ra kí tặng Quỳnh, không quên dặn Quỳnh là photo thêm cho tôi một bản, vì trong túi chỉ còn có một cuốn.
     
[image]
     Nếu Đi Hết Biển
 
Tôi có bản photo của NĐHB từ đó, đọc và cất giữ như một cuốn sách quí. Dọn nhà đã mấy lần, đã thanh lí rất nhiều sách cũ, nhưng cuốn sách của Trần Văn Thủy thì không bao giờ rời bỏ.
Trong cuộc trò chuyện, Trần Văn Thủy giải thích về cái tít mà ông đã giật cho cuốn sách: Nếu đi hết biển thì (nhân loại) sẽ gặp nước Mĩ.
Chúng tôi nghe mà giật cả mình. Ông nói say sưa, giải thích bình luận sôi nổi, thuyết phục và lôi cuốn hơn cả khi được xem phim CTT và HNTMA. Rất đông người trong quán lúc bấy giờ đã kéo ghế dồn lại bàn chúng tôi để được nghe Trần Văn Thủy nói trong một cuộc gặp đầy ngẫu nhiên và ngẫu hứng.
Hóa ra là thế. NSND Trần Văn Thủy đã chỉ ra rằng nước Mĩ là chân trời, là tương lai, là đích đến của nhân loại, của cả thế giới này. Tất cả những điều đó ông đã nói hết trong NĐHB.
Thảo nào mà trong chuyến đi của lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình sang thăm nước Mĩ 1972, một thành viên cao cấp của Cs Trung Quốc đi trong đoàn sau khi được chứng kiến tận mắt xã hội Mĩ đã phải thốt lên:  Tôi đã thấy CNCS rồi.
   
Được đăng bởi nguyentrongtao.org
...Tháng 8-2002 WJC lại liên lạc với tôi nhắc lại lời mời, tôi rất cám ơn và vẫn từ chối. Cuối cùng họ chân tình cho biết, nhiều người ở Mỹ muốn gặp tôi. Tôi vui vẻ Thank you very much và bay qua Mỹ. Nhận 6 tháng lương, các loại vé bay nội địa và một cái Thẻ Xanh (nếu có thì giờ tôi sẽ trở lại câu chuyện cái Thẻ Xanh này sau nhé. Lúc đó tôi chẳng hiểu nước Mỹ cấp cho tôi cái đó để làm gì, mãi đến sau này tôi mới hiểu được giá trị của cái Thẻ Xanh). Viết tới đây tôi rất nhớ và cám ơn mấy người bạn ở WJC đã trở thành thân thiết, quan tâm chu đáo với tôi rất nhiều.

2- “GIÀ RỒI, LÀM THẾ ĐỦ RỒI! CHƠI ĐI! KHÔNG CHƠI THÌ CŨNG CHẾT!”
Ngày 1-10-2002 tới Boston, mấy ngày sau tôi tới văn phòng của WJC trong khuôn viên của Đại học Massachusett để chào mọi người, “nhận việc” với ông Kevin Bowen giám đốc Trung tâm.
Sau một hồi trao đi đổi lại về những băn khoăn của tôi trước lời mời và những việc mà tôi sẽ làm. Các bạn ở WJC hóm hỉnh nói với tôi rằng:
- Đây là nước Mỹ…có nghĩa là ông muốn làm gì thì làm, ông muốn đi đâu thì đi, muốn viết lách hoặc làm phim gì tùy ông. Nếu không hứng thú làm cái gì cả, tiêu hết tiền thì ông về Việt nam.
- Nước Mỹ của các ông thật là tuyệt! Nếu không làm được gì thì tôi đi chơi. Ông có biết không? Trước khi lên máy bay ở Hà nội một bạn trẻ của tôi, nó bô bô dặn tôi rằng “Già rồi! Làm thế đủ rồi! Chơi đi! Không chơi thì cũng chết!” Nó nói rất thật lòng và có ý thương tôi.
OK! Thế là tôi đi chơi. Một nhà thơ mới quen biết, anh Hoàng Chính Nghĩa đã đưa tôi đi Las Vegas . Lần khác, một cô gái Mỹ chính cống nói tiếng Việt rất sành điệu lái xe đưa tôi đi Hollywood . Cô ấy rất tốt với tôi, có lúc hai đứa dừng xe, ngồi trên đồi cao, ngắm toàn cảnh vùng Hollywood …Thế mà bây giờ tôi quên mất tên cô ấy rồi, chán thật! Tôi gặp lại Lưu Hà, người quay phim Hà Nội Trong Mắt Ai sau nhiều năm lưu lạc. Hà đãi tôi một chuyến du ngoạn Disneyland. Rồi mấy bạn trẻ từ Việt Nam sang du học rủ tôi đi xem Lá Vàng, mùa thu vàng ở vùng Đông Bắc, tiểu bang Vermont…Thiên nhiên nước Mỹ, bầu trời, rừng cây, sóng biển, màu nắng qủa là hấp dẫn trong mắt một người làm phim như tôi.
Nhưng, tựa như một ma lực, một định mệnh, tôi bắt gặp nhiều hoàn cảnh, nhiều câu chuyện trong bà con người Việt mà tôi có thể tiếp xúc. Vui thì tôi chóng quên, buồn thì tôi bị ám ảnh, ám ảnh nhiều lắm, nhất là chuyện vượt biên, vượt biển, cải tạo, tù tội…
Bất giác trong tôi, mơ hồ một mặc cảm tội lỗi…
Rồi một lần đi trên xa lộ mênh mông với hơn chục làn đường, dài hun hút, ngước nhìn bầu trời, có những đàn chim bay rất cao về phương Nam, bên phải là Đại Tây Dương sóng đập ầm ầm vào vách đá tung bọt trắng xóa. Tôi chợt rùng mình, như thấy một sự mách bảo từ rất cao, từ rất xa, rằng: Trời Phật đang cho ngươi một cơ hội để làm một việc có ích! Tôi lặng người…
Từ đó tôi không đi chơi nữa, tôi quyết định toàn tâm toàn ý vào một công việc rất mơ hồ và không rõ cái đích ở đâu, chỉ đinh ninh là nó sẽ có ích. Tất nhiên với WJC, với Kevin, nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ chứ trước khi rời khỏi Mỹ, dài ngắn nông sâu gì thì tôi cũng sẽ nộp cho anh ta một xấp giấy có chữ. Gọi nó là gì cũng được, nhưng xin chớ gọi là “công trình nghiên cứu” Kevin ạ!
Tôi không rong chơi được nữa, dù lời người bạn trẻ vẫn văng vẳng bên tai: “Già rồi! Làm thế đủ rồi! Chơi đi! Không chơi thì cũng chết!”
3- ĐẦU TÊU LÀ BỐ NGUYÊN NGỌC!
Tôi đặt bút viết những trang đầu, rồi cố gắng “rặn” ra được quãng bốn năm mươi trang, suôn sẻ. Do có thói quen “đội mũ Kim Cô ôtômatích” (trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam không ít người chỉ cần nghĩ khác cấp trên là tự nhiên thấy đau đầu), tôi luôn nghĩ đến người đọc, người đọc trong nước và đặc biệt là người đọc ở Mỹ. Tôi bị khựng lại hoàn toàn. Tôi không thể viết được, dù cố gắng, dù có tấm lòng, dù chân thực, dù khách quan thì những gì tôi viết ra vẫn sẽ bị xăm soi, mổ xẻ, suy diễn bởi một điều đơn giản: Tôi từ Việt nam sang! “Ôi, cái người Việt mình nó thế!” Có biết bao điều cần nhắn gửi, cần tỏ bày, cần suy ngẫm xung quanh tôi, nhất là tôi đi nhiều tiểu bang, gặp nhiều người, thăm nhiều gia đình, lắng nghe và nói chuyện đến gần một trăm buổi ở các Đại Học danh tiếng nước Mỹ.
Hoàn cảnh xui khiến, nghề nghiệp mách bảo, có một cách làm khả dĩ hơn, người đời dễ cảm thông hơn, đó là đè mấy ông bạn văn chương, trí thức, cởi mở để trao đổi, trò chuyện về chính cuộc sống và suy nghĩ của người Việt ở đây. Ôi đó là thượng sách, khỏi phải đau đầu, khỏi phải viết, chỉ việc ghi chép trung thực và cam đoan với nhau: nếu công bố thì phải “Y như bản chính”.
Tôi nhẹ cả người, tấm lòng của bạn bè và sự tinh quái của một người làm phim tài liệu đã mở ra một lối đi cho tôi. Nhưng cũng mất nhiều công sức lắm, bàn thảo với các anh chị ấy nhiều lắm, cuối cùng thì toàn bộ bản thảo được chỉnh lý, đánh máy đóng bìa, chốt lại trên 200 trang, để nộp cho WJC, hai tuần trước khi tôi rời nước Mỹ.
Thế rồi, “trời xui đất khiến” thế nào, bỗng dưng bố Nguyên Ngọc lù lù tới Boston , ở cùng nhà, đi dạo, chuỵên trò, thăm hỏi linh tinh: “Thủy, cậu sang đây làm gì?” … “Thế à? Viết xong chưa?”… “Đưa tớ đọc chơi được không?”… Bố Nguyên Ngọc đọc 3 đêm, sáng dậy chưa ngồi vào bàn ăn, mắt còn đỏ vì thức khuya, bố đặt tay lên tập bản thảo và nhìn vào mắt tôi: “Thủy! Cái này nó rất cần và có ích.” Tôi không tin ở tai mình, hỏi lại: “Anh bảo sao?” Nguyên Ngọc nhắc lại: “Cái này rất cần và có ích.” Tôi nóng ran cả người. Bố này mà đã nói là tôi tin, nhưng chẳng lẽ cái “công trình nghiên cứu” dơi chẳng ra dơi, chuột không ra chuột này mà lại cần và có ích sao? Một người bạn đứng bên nghe chuyện, anh không khen chê, không bình luận mà chỉ thủng thẳng: “Tập này mà in thì cậu không về nước được! Về nước thì không bao giờ có chuyện in. Chưa có thằng nào qua đây in sách kiểu này mà dám vác mặt về nước.” Chỉ vài giây im lặng, tôi nói rành rọt với nhà văn Nguyên Ngọc: “Nếu anh bảo cái này nó cần và có ích thì chắc chắn tôi in ngay và tôi cũng sẽ về nước ngay.”
Ngay hôm sau tôi bay từ Boston qua Las Vegas đến Los Angeles. Đón tôi ở sân bay là nhà văn Hoàng Khởi Phong và Cao xuân Huy. Ngay lập tức, trên xe, với mobilephone, Hoàng Khởi Phong cùng Cao Xuân Huy đã liên lạc, thu xếp và quyết định việc in Nếu Đi Hết Biển trước khi tôi bay về VN. Tôi bảo in ấn thì phải xin phép và duyệt nữa thì chẳng kịp đâu. Hoàng Khởi Phong và Cao xuân Huy cười phá, diễu nhau: Chán quá! nước Mỹ không có Ban Tư Tưởng Văn Hóa! Ừ nhỉ, ngay cả Bộ Văn Hóa cũng không có nữa! Vậy mà tại sao người Mỹ lại ẵm về quá nhiều giải Văn hóa Nghệ thuật đến thế, cả Oscar và cả Nobel ?…Quái lạ!
Cuốn Nếu Đi Hết Biển nó ra đời lòng vòng là vậy. Chẳng có âm mưu gì đáng ngại, chẳng có tài cán gì đáng nể. Chung qui, hay dở, đúng sai gì thì do bố Nguyên Ngọc đầu têu mà thôi.
4- “CÁI NGƯỜI VIỆT MÌNH NÓ THẾ!”
Cuốn Nếu Đi Hết Biển ra đời ở Quận Cam năm 2003, ngay lập tức được lan truyền. Nói một cách công bằng rằng, ở Mỹ khá nhiều người đọc chấp nhận nó, nhưng cái kẹt của nó là: Do một người trong nước sang thực hiện. Thời điểm đó, phương tiện thông tin đại chúng của người Việt ở Mỹ không dễ dàng đồng tình với việc làm của một người trong nước, vốn sống dưới chế độ “cộng sản toàn trị”. Do vậy những người đồng tình thì im lặng; những người sốt sắng tỏ thái độ phản đối, lên án thì sẵn sàng có diễn đàn.
Tình cảnh của Nếu Đi Hết Biển ở Mỹ lúc đó cũng giống như tình cảnh của Hà Nội Trong Mắt Ai ở Việt nam vào đầu những năm 80. Ngày ấy người thích thú, tán thành Hà Nội Trong Mắt Ai thì khá đông nhưng không có quyền, không có diễn đàn; người phản đối, lên án thì rất ít, nhưng có quyền, có diễn đàn, thậm chí có cả một guồng máy. Các cụ ngày xưa nói “Trong họa có phúc” chẳng sai. Người ta tò mò tìm mua, biếu tặng nhau và gửi về Việt Nam “Nếu Đi Hết Biển” đến đoạn hết sạch. Năm 2004 Hoàng Khởi Phong lại lo việc tái bản. Tái bản sách tiếng Việt ở Mỹ cũng là chuyện hiếm vì người đọc tiếng Việt thưa thớt dần. Nếu Đi Hết Biển giống Hà Nội Trong Mắt Ai ở chỗ được mọi người quan tâm tìm xem, đọc vì nó được chửi, được đồn thổi nhiều chứ chưa hẳn vì nó hay. Cho nên “trong họa có phúc” là thế.
Chuyện phúc-họa này tôi cũng đã có lần nói với các đạo diễn điện ảnh Mỹ nhân dịp ở Viện Hàn Lâm Âm nhạc Brooklyn (BAM) – New York tổ chức chiếu phim của tôi với sự có mặt của đạo diễn đoạt giải Oscar, Peter David. Người ta hỏi tôi:
-<àm phim ở Việt nam có phải kiểm duyệt qua nhà nước không?
Tôi bảo:
-Câu hỏi vừa rồi như của một người ở hành tinh khác! Đương nhiên là có chứ!
-Tại sao?
-Làm phim ở Việt nam muốn công chiếu thì phải duyệt! Nhờ duyệt, nhờ phê phán, nhờ cấm đoán ầm ĩ mà tôi được mọi người chú ý, rồi có thể nói… tôi nổi tiếng! Đấy các ông xem, làm phim mà cứ muốn làm thế nào thì làm như ở Mỹ các ông thì làm sao tôi nổi tiếng được. Tôi thương các đạo diễn Mỹ, các vị thường phải bỏ ra đến một phần ba kinh phí để làm quảng cáo thì mới có đông người xem, mới nổi tiếng. Tôi chẳng mất xu nào, chỉ nhờ vào duyệt, vào phê phán, cấm đoán, tôi nổi tiếng.
Thưa các anh, bởi vậy các anh có thể tin là tôi rất bình thản trước những phê phán, bài xích, bôi nhọ Nếu Đi Hết Biển. Chuyện này tuyệt đối không là cái gì so với những điều tôi từng trải qua. Những chuyện từng trải trong việc làm nghề của tôi nó kinh khủng hơn nhiều, nó ly kỳ hơn nhiều, những chuyện ấy thật mà như bịa, hấp dẫn chẳng kém chuyện kiếm hiệp Tàu.
Có chăng, tôi thấy buồn cho người Việt mình. Hãy đọc lại Vũ Ánh (một phóng viên kỳ cựu của VNCH, đã từng tháp tùng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăm Italia). Trong lời bạt của Nếu Đi Hết Biển, ông đã thất vọng như thế nào về bản ngã của người Việt.
Mọi người đều biết, ở Mỹ từ lâu đã có một khái niệm “Nồi Hầm Nhừ” (Melting Pot). Nó rất có ý nghĩa với các cộng đồng nhập cư vào Mỹ. Về nghĩa bóng, tự điển tiếng Anh BBC (1993) định nghĩa Melting Pot như sau: “Một nơi, một hoàn cảnh trong đó những con người những nền văn hóa và tư tưởng hòa trộn với nhau.” (Hồ sơ Văn Hoá Mỹ. trang 63. NXB Thế giới.) Ở Mỹ, sự hòa trộn đó không diễn ra như một quá trình xâm thực, đồng hóa, áp đặt mà dựa trên nền tảng chấp nhận sự khác biệt để cùng nhau xây dựng cuộc sống văn minh và thịnh vượng. Phải chăng đó là cốt lõi, là tinh hoa của “Nồi Hầm Nhừ”. Vậy nó có tác động gì không đối với cộng đồng người Việt nam trong vấn đề mà chúng ta đang đề cập?
Theo nhiều nhà nghiên cứu xưa và nay, bản ngã con người Viêt là rất có vấn đề. Bởi vậy cụ Phan Chu Trinh mới chủ trương nâng cao dân trí là việc hàng đầu; rồi học giả Nguyễn Văn Vĩnh đã có mục “Xét Tật Mình” trên các trang báo của ông đầu thế kỷ 20, cũng là để nói vấn đề này.
Vậy phải chăng cái gốc của vấn đề không chỉ là thể chế chính trị (đương nhiên thể chế chính trị là quan trọng, tối quan trọng) nhưng vấn đề cốt lõi là bản ngã con người Việt?
Có lẽ nên kể thêm rằng, thời kỳ đó cùng qua Mỹ tham gia chương trình của WJC có anh Huệ Chi, anh Hoàng Ngọc Hiến và nhiều trí thức ở các quốc gia khác nhau. Anh Huệ Chi, một trí thức có bản lĩnh, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản, một người luôn đau đáu với những ngang trái của xã hội, lúc đó cũng bị la ó, chửi bới tồi tệ là tay sai cộng sản, là du kích văn hóa…Anh Huệ Chi chỉ mỉm cười và chăm chú vào việc học vi tính để đến ngày nay làm chủ một trang mạng được kính trọng vào bậc nhất VN: BauxiteVN. Tôi thì rất dốt về computer, may quá hồi đó cùng ở với đạo diễn Đỗ Minh Tuấn, anh là người đầu tiên chỉ dẫn cho tôi cách meo móc, chát chúa…
Hồi đó , ở Mỹ, anh Hoàng Ngọc Hiến cũng bị chửi dữ lắm, nhưng anh cũng chỉ cười khì khì, suốt ngày cậu cậu, tớ tớ. Chúng tôi quý trọng anh lắm, thăm hỏi, gặp nhau luôn, ở nhà, ở câu lạc bộ, ở hội thảo văn học Việt Mỹ vừa rồi. Chứng kiến thời thế, tình cảnh dở khóc dở cười của người Việt mình ở trong nước cũng như ở ngoài nước, anh thường lắc đầu, hạ một câu mà ai cũng khoái: “Ôi! Cái người Việt mình nó thế.”
5- «MÊ LỘ»
Thưa các anh,
Thư tới đây kể như đã dài dòng. Tuy nhiên sẽ không khách quan, không trung thực nếu lảng tránh hoặc quên đi một việc quan trọng mà có thể nhiều bạn đọc quan tâm. Đó là thái độ của cấp có thẩm quyền nhà nước Việt nam ra sao với cuốn Nếu Đi Hết Biển. Vui đáo để. Xin kể:
Sau khi tôi từ Mỹ về Hà Nội vài ngày, có một người bạn, xưa cùng đi chiến trường đến thăm tôi (anh viết văn, tôi làm phim). Anh rất OK với Nếu Đi Hết Biển và đặc biệt lưu ý xin tôi một cuốn để về chuyển cho một người, cũng là bạn thuở chiến tranh nhưng bây giờ làm thủ trưởng cơ quan Tư Tưởng Văn Hóa của Đảng. Tôi ngại quá, nói rằng đây không phải tác phẩm, tác giả gì cả mà chỉ là một điều tra xã hội học trực tiếp, chẳng hay ho gì đâu, đưa ông ấy đọc chẳng tiện tí nào. Anh bạn quyết xin và nói ông ấy đọc xong sẽ gặp tôi. Anh bạn cầm cuốn sách đi, rất chân thành. Tất nhiên tôi chẳng có thì giờ chờ đợi gặp gỡ ai cả. Nhưng, sau đó, vào đầu năm 2005, chuyện chẳng lành đã tới: Một người thương tôi đã chuyển cho tôi một văn bản có tiêu đề: «Báo cáo tổng kết tình hình Tư tưởng Văn hóa năm 2004» có đóng dấu TỐI MẬT, do một người tên là Đào Duy Quát ký. Tất nhiên trong cái báo cáo «tối mật» mà tôi bất đắc dĩ phải đọc ấy có nhiều chuyện trời ơi đất hỡi mà tôi chẳng quan tâm. Nhưng đến cái mục phê phán gay gắt cuốn Nếu Đi Hết Biển thì tôi phải đọc. Tôi đã quen đọc những bài báo, những tổng kết, báo cáo phê phán tôi rồi, không những thế trong tay tôi còn lưu giữ khá nhiều những gì trong và ngoài nước viết về tôi. Chẳng lẽ lại chụp hình bản «báo cáo tối mật» đó và đính kèm cùng bức thư này, làm thế thì cầu kỳ, sang trọng quá.
Nhưng có lẽ ơn nhờ vào sự phê phán ấy, cùng với những lời đồn thổi của Thông Tấn Vỉa Hè, Nếu Đi Hết Biển được lén lút mang về Việt nam cũng không ít, nhiều người chuyền tay đọc bản photo của bản photo và thậm chí thuê, mượn ở các quán sách vỉa hè. Một số nhà xuất bản có nhã ý muốn in. Anh Nguyễn Đức Bình, giám đốc Nhà Xuất Bản Văn nghệ từ Sài gòn ra Hà nội, tới nhà tôi thương thảo việc in Nếu Đi Hết Biển. Tôi vui vẻ tiếp anh và rằng, tôi cám ơn sự quan tâm của anh và sẽ không lấy một xu bản quyền. Nhưng có một điều kiện duy nhất: Nhà Xuất Bản phải in nguyên xi 100%, đúng từng dấu chấm dấu phảy. Anh Bình bảo chữ nào nhạy cảm quá anh sẽ cho lược bỏ và chấm chấm. Tôi nói: Có lẽ không nên như thế, bởi vì làm như vậy, các bạn và những người đã đối thoại với tôi, giúp tôi làm cuốn sách này ở bên kia sẽ ăn đòn vì bị cho rằng: Mắc mưu cộng sản.
Quả là không đơn giản.
Thưa các anh,
Tổng quát lại, nhân đây tôi cũng muốn tâm sự một điều, người Việt nam ta không biết tự bao giờ, không biết vì lý do gì, bỏ ra không biết bao công sức, thời gian, tiền bạc và tính mạng để (nói theo kiểu dân gian)…Oánh nhau!
Thật khổ! Một dân tộc thiệt thòi đủ đường, khó khăn đủ đường; chung sức chung lòng, hết tình hết nghĩa với nhau còn chẳng ăn ai huống hồ chỉ ham «oánh nhau» thì làm sao mà khá lên được. Sức lực đâu còn, ca-lo đâu còn để mà xây dựng, để mà kiến thiết nữa. Phải chăng cái chuyện «Biểu Diễn Lập Trường», cái chuyện «Mê Lộ» (tôi ngẫm nghĩ nhiều lắm về cái từ «Mê Lộ» này của Nguyễn Mộng Giác) vẫn còn là vấn nạn của người Việt chúng ta dài dài. Các thể chế chính trị và cả giới trí thức chưa thực sự quan tâm đúng mức đến vấn nạn này. Rõ ràng là bên cạnh những cốt cách tốt đẹp, thì người Việt nam ta, đâu đó vẫn tiềm ẩn không ít những thói hư tật xấu rất tệ và rất hại.
Cuối cùng cho tôi được thành tâm bày tỏ tình thân ái và lòng biết ơn chân thành với các anh vì đã có dịp được sẻ chia những điều mà tôi cho là đáng lưu tâm này.
TRẦN VĂN THỦY
Tái bút:
À quên, các anh có nhắc tôi đồng ý hoặc tự đưa Nếu Đi Hết Biển lên mạng. Về phía tôi, không có gì trở ngại, nhưng tôi vốn là người được dạy dỗ kỹ nhất ngành điện ảnh Việt nam về «ý thức tổ chức kỷ luật» nên tôi đề nghị các anh: Thứ nhất, xin phép Ban Tư Tưởng Văn Hóa. Thứ hai, đọc rồi nếu thấy cuốn sách dở quá thì ráng chịu.
Tôi nghĩ tết nhất sắp đến rồi, mong có dịp được gặp gỡ các anh, làm một bữa rượu, hi hi, ha ha cho vui cuộc đời. Ở đời, cái gì quan trọng thì quan trọng rồi nhưng xét cho cùng thì chẳng có gì là quan trọng cả. C’est la vie!

22 tháng 1, 2013

Nói theo phong cách Obama


Kể từ khi được Đảng Dân chủ cử ra tranh cử cho đến lúc thắng cử và trở thành tổng thống thứ 44 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Barack Obama đã nổi bật lên như là một nhà lãnh đạo có khả năng hùng biện vào bậc nhất thế giới. Chính ông đã đem sức mạnh của nghệ thuật hùng biện trở lại với nền chính trị Hoa Kỳ và từ những bài diễn thuyết của ông, đã tạo ra những tràng vỗ tay cuồng nhiệt và từ đó làm thay đổi quan điểm của người nghe một cách triệt để. Cũng từ đó mà cuốn Nói theo phong cách Obama (nguyên văn: Say it like Obama) của tác giả Shel Leanne được ra đời.

          
Tác giả cuốn sách này là một chuyên gia về nghệ thuật lãnh đạo. Từ biệt tài hùng biện của tổng thống Obama, ông muốn hướng dẫn cho người đọc phương thức kết hợp kỹ năng hùng biện, ngôn ngữ cơ thể và nghệ thuật thuyết phục tinh vi, đúc kết cả ba điều này thành một bài diễn văn nhuần nhuyễn, lưu loát, có khả năng tạo ra sự tin cậy nơi người nghe và thúc đẩy họ hành động. Qua nghiên cứu, phân tích nhũng bài diễn thuyết của Obama trước cử tọa có số lượng từ 30 ngàn đến 200 ngàn người, tác giả cuốn sách đã khẳng định: Khả năng hùng biện của Obama điêu luyện một cách hoàn hảo, ông xứng đáng là bậc thầy của nghệ thuật diễn thuyết.
Là một chuyên gia về nghệ thuật lãnh đạo, tác giả cuốn sách Nói theo phong cách Obama đã tập trung phân tích năng lực diễn thuyết của Obama cùng những cử chỉ, ngữ điệu và kỹ thuật đã giúp ông trở thành một trong những nhà hùng biện lừng danh nhất của thời đại mà chúng ta đang sống. Những thành công về mặt chính trị của vị tổng thống thứ 44 của nước Mỹ đã làm nổi bật một nhận định đã được khẳng định từ lâu: Tất cả các nhà lãnh đạo trong mọi lĩnh vực đều chiếm được lợi thế khi họ phát triển được kỹ năng hùng biện nổi bật, vì khả năng chuyển tải quan điểm, phong thái quả quyết và giúp truyền cảm hứng, khả năng thuyết phục và khiến người nghe phải xúc động là những yếu tố rất cần thiết cho một nhà lãnh đạo thành công.
Ngay ở nước ta, từ rất lâu người đời đã đặt ra 3 yêu cầu cần phải có của một bậc chính nhân quân tử. Đó là lập thân, lập ngôn và lập công. Lập thân tức là bản thân phải được học tập và rèn luyện tốt; lập ngôn nghĩa là biết cách nói năng dễ hiểu và có sức thuyết phục trước công chúng, nói một cách nôm na là mỗi khi mình nói phải có một cái gì đó cho người khác nghe; sau đó mới đến lập công tức là hành động vì dân vì nước. Nói như vậy cũng có nghĩa rằng lập ngôn, tức khả năng hùng biện là một trong ba yếu tố cần thiết của một nhà lãnh đạo. Một nhà lãnh đạo mà kiến thức nông cạn, nói năng ú ớ, diễn đạt rườm rà, nội dung nhạt nhẽo thì đó chỉ có thể là một nhà lãnh đạo tồi và không thể thành công trong công việc. Một trong những đặc điểm làm nên sự thành công của phong cánh hùng biện mà Obama đã sử dụng là hãy nói cái điều mà người nghe đang quan tâm.
Tuy nhiên, từ cuốn sách này đã cho thấy, dù rất có tài hùng biện nhưng trước khi bắt đầu diễn thuyết, thì việc đầu tiên mà Obama đã làm là xây dựng tốt uy tín bản thân và tạo dựng niềm tin trong nhân dân. Cũng có nghĩa là trước khi biết nói hay thì cần phải biết cày giỏi đã. Lời nói dù có hay đến mấy cũng chỉ là để bổ sung và chứng minh cho hành động của người nói.  Nói như vậy, tác giả cuốn sách cũng muốn khẳng định: Tổng thống Obama là một người tài năng trên cả hai phương diện lời nói và việc làm. Trong các phát biểu, các diễn văn của Obama, những từ như thuyết phục, thu hút, truyền cảm  đã trở thành năng lực truyền đạt của ông. Tương tự, những từ như hùng hồn, gây cảm hứng, hấp dẫn đã trở thành chất liệu đặc trưng của phong cách nói Obama. Không dễ gì mà hàng trăm triệu người Mỹ đã được ông thuyết phục để bỏ phiếu bầu ông làm tổng thống.
Trong lịch sử các đời tổng thống Mỹ cũng đã từng có những nhà hùng biện tài năng như Kennedy, Bill Clinton và Ronand Reagan. Họ là những diễn giả vĩ đại của nước Mỹ. Và bây giờ, đến lượt mình, Obama cũng đã làm được như họ. Không những thế, tài năng diến thuyết của Obama còn vượt ra ngoài  biên giới của nước Mỹ để làm cho nhiều người trên thế giới này phải lấy làm khâm phục. Vào tháng 7 - 2008, tại thủ đô Berlin của nước Đức, ông đã thu hút được 200 ngàn người nghe qua bài diễn văn duy nhất của ông.
Cho dù bạn có nghĩ như thế nào về chính kiến của Obama, thì cũng phải công nhận rằng, mỗi khi Obama xuất hiện trước đám đông và cất lời diễn thuyết, cũng là khi mà bạn phải chăm chú nghe ông nói và sẽ bị ông thuyết phục. Đó là điều đã làm nên thành công trong sự nghiệp chính trị của Obama để trở thành ông chủ lẫy lừng của Nhà trắng.
Nhiều người cho rằng sự thành công đáng kinh ngạc của con người da màu trẻ tuổi Obama trên chính trường nước Mỹ  là nhờ vào các thông điệp đầy ấn tượng của ông về niềm hy vọng khắc phục những chia rẽ truyền thống về đảng phái, kinh tế, tôn giáo, vùng miền và chủng tộc. Thật ta, từ những bài diễn văn của ông đã thổi bùng lên niềm tin của  người dân Mỹ về những vấn đề mà họ đang rất quan tâm như: Việc làm của bản thân, Tương lai mới của đất nước, Trung thành với những gì mà nước Mỹ đã hứa hẹn; và tái khẳng định giấc mơ Mỹ (American dream). Nghe Obama diễn thuyết, người dân Mỹ sống lại với niềm tin: Bất cứ ai cũng có cơ hội thành công, giàu có và hạnh phúc tại Hoa Kỳ miễn là phải chịu khó làm việc. Lao động sẽ đem lại vinh quang cho mỗi người. Đó là điều Obama hứa hẹn với người dân Mỹ và chính vì thế mà họ đã bỏ phiếu để ông trở thành tổng thống.
Có lẽ một trong những tố chất không thể thiếu của một nhà chính trị là khả năng diễn thuyết trước công chúng. Thiếu đi khả năng này, nhà chính trị dù có cân đai áo mão đến đâu, dù có khoác lên mình những chức vụ, danh hiệu gì thì trong mắt công chúng, họ cũng chỉ là những pho tượng gỗ không hơn không kém.
Nước Mỹ, người dân Mỹ thật là hạnh phúc khi có được nhà lãnh đạo như Tổng thống Obama
Bạn hãy đọc cuốn sách này để thấy mình còn có rất nhiều điều cần phải học hỏi thêm trong cuộc sống. Từ nhận thức đến lời nói và việc làm./.
 (*) Dịch giả: Hoàng Sơn, NXB Tổng hợp Tp.HCM, 2009, 292 trang.

16 tháng 1, 2013

Lại nói chuyện học văn


Hết hội thảo này rồi sang hội thảo khác mà môn văn – dạy và học, vẫn như một thứ món ăn bất đắc dĩ với đám học trò. Để rồi cuối cùng thì thầy cô dạy văn và học trò làm văn đều như vẹt học nói.
Nhớ hồi con bé út tôi học lớp 6, đầu năm nó mang về một cái đề bài làm văn của cô giáo bảo “ba làm giùm con”: Em hãy tả cảnh buổi sáng trên bãi biển.
Đã làm dân Qui Nhơn thì hầu như cả thành phố đều sống trên bờ biển. và dù sáng hay chiều thì cảnh bãi biển cũng là một mớ hổ lốn khó mà tả cho mạch lạc. Tuy nhiên tôi vẫn hỏi con gái là con cần làm bài dài bao nhiêu. Nó xòe tay ra bảo một trang.
Okie. Có ngay. Dễ ợt. Ba đọc con chép nhen.
Chỉ sau 20’, vở con bé đã có một bài tả cảnh bãi biển quê em vào buổi sáng với những trời xanh biển rộng, sóng trắng xô bờ với những con người phố biển năng động, nào tập bơi lặn, nào chạy nhảy, nào đánh bóng chuyền, có cả nói cười tâm sự v.v  trên bờ là hàng phi lao gió thổi rì rào. Tóm lại là dù chỉ dài một gang tay nhưng bài văn tôi làm con bé viết rất du dương, sôi động và yêu đời.
Sáng ra con gái mang ba lô đi học và nộp bài, còn tôi hồi hộp chờ đợi xem bài làm văn của nó, mà thực ra là của tôi sẽ được cô giáo lớp 6 cho mấy điểm. Dù không nói ra nhưng tôi nghĩ cũng phải 8 điểm trở lên. Không cao mới lạ.
Một tuần sau, tôi đi làm về nhân thể đón cháu. Vừa ra khỏi cổng trường nó đã thông báo ngay: -Bài văn của ba cô con cho 5 điểm.
Tôi có nghe nhầm không đấy. Đưa vở ba xem nào. Nó lật ngay bài làm với lời phê đỏ chói lói của cô giáo: Ý nghèo, sao không có cảnh đánh cầu lông.
Ôi trời. Tôi nói với con gái mà như cãi nhau vô hình với cô giáo: -Đã có bóng chuyền rồi thì thôi cầu lông chứ, sao không phê luôn là thiếu cả bóng đá nữa đi. -Không ba, cô con bảo sáng nào cô cũng ra biển đánh cầu lông mà.  
Sau đó thì có cuộc họp phụ huynh đầu năm. Tôi đi họp. Cô giáo dạy văn cũng là giáo viên chủ nhiệm lớp thông báo là học lực của cả lớp rất yếu, phụ huynh cần cho con em đi học thêm.   
Học thêm, có ngay! kể cả môn văn là môn có ba nó làm nghề dạy văn, chỉ có điều là dạy ở bậc đại học.  
Dĩ nhiên là đóng tiền đầy đủ mới được đi học thêm.
Từ đó điểm văn của con gái được cải thiện ngay. Từ 5 lên 6 rồi 7 rồi 8. Cứ như là con bé sinh ra để học văn vậy.
Dạy thế học thế không thành vẹt cả lũ mới lạ.
     

15 tháng 1, 2013

Những ngôi sao sáng mãi

Bài viết của 
NS Trần Mùi                                                       
  
Quả thật, từ lâu lắm rồi tôi mới được thưởng thức một chương trình làm cho trái tim tôi thổn thức và xúc động đến như vậy..Cũng là những bài hát truyền thống ấy nhưng ở vào một không gian, thời gian nào đó… thì sự xúc động ấy có,  nhưng ở một cấp độ nào đó… và người trong cuộc lại nhớ tới một quá khứ - trong đó mình là một chứng nhân…
Nhưng với chương trình “Những ngôi sao sáng mãi” và “Mãi mãi khúc quân hành” của Nhà hát Ca Múa Nhạc VN biểu diễn trong buổi Lễ đón nhận Danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” hôm 22.12.2012 tại Hà Nội thì chương trình này được đẩy lên ở một cấp độ cao hơn trong tâm hồn và suy nghĩ của những người tham dự hôm ấy : Sự thổn thức, nhớ nhung, sen lẫn bi thương về một quá khứ lửa khói anh hùng ngày nào.
Cả nhà hát im lặng, trong sự im lặng ấy tôi biết rằng, tận đáy sâu của tâm hồn mỗi người đều dâng dâng một niềm xúc cảm dạt dào, mãnh liệt ví như những đọt sóng cuồn cuộn dâng tràn trong buổi tối hôm ấy với nhiều nỗi :
Nhớ,
Thương,
Tự hào và ấn tượng..

“Những ngôi sao sáng mãi” của đêm diễn đầu tiên nằm trong chuỗi 4 đêm chương trình nghệ thuật chào đón Danh hiệu được diễn ra tại Nhà hát Âu Cơ.
Với chủ đề như trên, mọi người có thể hiểu đây là chương trình nhằm tôn vinh những nghệ sĩ các thời kỳ của Nhà hát.
Chủ đề xuyên suốt cùng với phần biểu diễn đan xen của lớp nghệ sĩ trẻ hôm nay.

Đêm ấy, chúng ta bắt gặp lại những khuôn mặt thân quen, những ngôi sao sáng của một thời thế hệ nghệ sĩ. Họ đươc giới thiệu và được tôn vinh rất trân trọng. Những bó hoa tươi thắm của mùa đông Hà Nội càng mặn mà màu sắc hơn, trên ngực mỗi người lấp lánh phiên bản Huy chương “Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân” do Nhạc sĩ Quang Vinh Giám đốc Nhà hát trao tặng lại càng có ý nghĩa hơn trong tiếng nhạc hào hùng của bài hát “Tổ Quốc Việt Nam”…
Nghệ sĩ ca Phương Thảo là người được MC phỏng vấn đầu tiên. Chị nói về tốp ca nữ của Đoàn Ca Múa nhân dân TW ngày ấy, chị giải thích tại sao tốp ca này lại có biệt danh là tốp ca nữ “Tên lửa”…
Đã lâu lắm rồi, có lẽ 40 năm rồi… Hôm nay tôi mới gặp lại các chị.
Ôi, Kim Quy, Vũ Dậu, Phương Thảo cho đến Thanh Huyền rồi Quỳnh Giao, Bích Liên tới Minh Nguyệt…ngày nào trẻ trung xinh đẹp thế mà hôm nay các chị đã là Ông là Bà của những thế hệ con, cháu….
Các chị vẫn trong sáng hồn nhiên hát như ngày nào “Bài ca may áo”. Ca sĩ Thanh Huyền chất giọng vẫn đậm đà sâu lắng với bài “Mẹ yêu con”.
“Trường Sơn nhớ Bác” được những chàng trai tốp ca nam của thời Đoàn Ca Múa NDTW với “Hò kéo pháo” “Bài ca người săn máy bay” đã làm rung động trên sân khấu Nhà hát Lớn thì hôm nay, trong bộ quân phục màu xanh của cỏ cây, mái đầu ai ai cũng bạc trắng họ lại say sưa hát những bài hát dấu ấn của ngày ấy.
Nghệ sĩ Vũ Dậu hát “Anh ở đầu sông em cuối sông” một bài hát đã làm nên tên tuổi của chị. Chúng ta lại gặp Mạnh Hà với đoạn Clip được quay khi anh hát tại trận địa cao xạ pháo thì tối nay với một Mạnh Hà chững chạc, vững vàng hơn khi hát “Hát mừng các cụ dân quân”. Trước khi hát, anh nói : “ Tôi xin phép đổi tên bài hát là hát mừng các cụ Cựu Nghệ sĩ” trong tiếng cười thú vị của mọi người.. Quang Thọ “Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn”. Quang Huy “Đất nước”. Lệ Quyên từ nước ngoài trở về, chị không hát mà lại ngâm bài thơ “Quê hương”. Kiều Hưng cũng từ nước ngoài trở về, sức khỏe của anh có phần kém đi nhiều bởi mới đây anh bị tai biến nhưng vẫn cố gắng ra sân khấu hát “Bài ca trên núi”, song ca với Thu Hiền “Người đi xây hồ Kẻ gỗ” những luyến láy, lấy hơi của anh vẫn mềm mại, chuẩn xác, âu cũng là một điều ngạc nhiên xúc động với người dự đêm đó.
Sẽ thật là thiếu sót nếu không nói tới các cựu nghệ sĩ muá, bởi đội múa của Đoàn thuở ấy là một thế mạnh với nhiều nghệ sĩ trẻ, đẹp có tay nghề cao…Như Chu Thúy Quỳnh, Bích, Oanh, Lệ Hằng, Vân Quyên, Nguyệt Nga, Mỹ Vân, Nguyệt Ánh, Đàm Minh, Anh Nghiêm, Mạnh Hùng, Cao Minh, Viết Việt, Quan Vi Đạt…
Cảm động bao nhiêu khi nhìn thấy nghệ sĩ múa Anh Nghiêm một trong những con chim đầu đàn của đội múa khi ra sân khấu để mọi người tôn vinh, anh vẫn mặc sẵn cái quần rộng thùng thình của “Tuần đuốc” để cho kịp khi biểu diễn. Hình ảnh ấy đã làm tôi xúc động bời lòng yêu nghề, nhớ nghề, sự tận tụy của anh mà lớp trẻ phải noi gương.
Trong lời nói, đôi lúc ngưng lại vì xúc động. Nghệ sĩ múa Thúy Quỳnh nhớ lại những kỷ niệm đầy tự hào của những tháng năm gian khổ cho đến ngày hôm nay. Vinh quang cùng sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước đã đến, gặp lại những nghệ sĩ đã từng gắn bó với chị hôm nay… Chị lại nhớ tới Mạnh Hùng, nghệ sĩ múa là đồng nghiệp và cũng là người chồng thủy chung của mình.
Giờ phút vinh quang này không có anh cũng như nhiều nghệ sĩ khác đã ra đi. Nhưng tôi nghĩ : Các anh, là những con chim đầu đàn của Nhà hát này có thể vui và mãn nguyện bởi sự đóng góp của mình đã đơm hoa kết trái cùng sự đi lên của thế hệ nối tiếp…Hôm nay đây, trong giờ phút vinh quang này, mọi người vẫn luôn nhớ và ghi ơn các anh, các chị. Như thắp lên những nén nhang thơm kính dâng lên những nghệ sĩ tiền bối trong niềm nhớ thương và kính trọng nhất.
“Những ngôi sao sáng mãi” còn đan xen với phần biểu diễn của lớp nghệ sĩ trưởng thành sau này như phần độc tấu Sáo, Bầu, Nhị của các nghệ sĩ  Mạnh Hùng, Trần Chính, Xuân Hoạch, Quốc Hùng, Thanh Sơn, Ngọc Xuyên, Xuân Anh, Tiến Đức, Đức Liên, Đinh Linh, Văn Ngư, Xuân Chung, Thanh Chung, Cựu NS Ngọc Hướng, Xuân Bình, Thái Bảo, Hoàng Thịnh, Trường Giang… người xem cảm nhận về sự kết nối giữa các thế hệ nghệ sĩ đến nhuần nhuyễn và hợp lý (không chỉ là nghệ thuật đơn thuần)… của đạo diễn và biên tập chương trình.
Những cựu nghệ sĩ của ban nhạc, sáng tác, chỉ huy tuy không hay ít hiện diện trên sân khấu, nhưng lại là những nghệ sĩ vô cùng quan trọng quyết định về phần âm nhạc có thể nói đó là linh hồn của đêm diễn.
Các Nghệ sĩ Violon Lưu Tuấn, Đỗ Nhự cũng như sự có mặt các nghệ sĩ nhạc như Trịnh Lễ, Đình Toàn, Bùi Phú, Hữu Xuân, Xuân Tứ, Hồng Quang, Phạm Kiếm, Thế Viên, Trần Mùi, Trần Quý, Trọng Bằng, Thế Vinh…quây quần tay bắt mặt mừng trong ngày hội ngộ…
Tiếng hát cao vút và trong trẻo của em bé gái xuất hiện tay trong tay người lình già cùng với các thế hệ nghệ sĩ củng hát vang : “Đời mình là một khúc quân hành, đời mình là bài ca chiến sĩ, ta ca vang triền miên qua tháng ngày, lượn bao trên núi rừng biên cương đến nơi đảo xa. Mãi mãi lòng chúng ta, ca bài ca người lính. Mãi mãi lòng chúng ta, Vẫn hát khúc quân hành ca” kết thúc đêm biểu diễn đầy ý nghĩa. Thế hệ anh hùng nối tiếp thế hệ của ngày hôm nay…vang vọng trong đêm cuối năm của mùa đông Hà Nội 2012 đã đem tới cho mọi người những cảm xúc dâng trào khó tả…
“Những ngôi sao sáng mãi” đêm 20.12.2012 còn thiếu vắng nhiều nghệ sĩ (đã mất, đau ốm hay ở xa không có điều kiện dự) nhưng mọi người vẫn nhắc và nhớ tới họ. Trong khuôn khổ bài viết này, chưa nêu tên đầy đủ hết các anh các chị có mặt ngày hôm đó bởi sự xa cách giữa chúng ta đã quá lâu, thời gian đã làm thay đổi trong từng người và sự chộn rộn đông đúc của ngày gặp gỡ không cho phép mọi người có cơ hội tiếp cận nhau…
Qua chương trình “Những ngôi sao sáng mãi” “Hát tiếp khúc quân hành”.
Chúng ta ghi nhận rằng : Thế hệ lãnh đạo hiện nay của Nhà hát Ca Múa Nhạc VN đã có những suy nghĩ, hành động vô cùng tốt đẹp và  đáng trân trọng..
Đó là sự Thủy chung, Tình nghĩa “Uống nước Nhớ nguồn” “Ăn quả Nhớ kẻ trồng cây” mà Ông cha ta đã dạy.
Đó là sự tôn vinh, kính trọng với các thế hệ nghệ sĩ của các thời kỳ và cũng là lẵng hoa dâng lên với những người đã khuất.
Và điều quan trọng hơn : Đó là niềm tự hào bởi quá khứ lẫy lừng của những thế hệ đi trước cùng thế hệ hôm nay cùng vun đắp để Nhà hát Ca Múa Nhạc VN đơm hoa kết trái…

  Tp.HCM, tháng Giêng năm 2013    
 NS Trần Mùi

“Hát mãi khúc quân hành”
một chương trình nghệ thuật nhiều cảm xúc 

Những câu hát cứ được nhắc đi nhắc lại : “Mãi mãi lòng chúng ta, ca bài ca người lính. Mãi mãi lòng chúng ta, vẫn hát khúc quân hành ca”…được xướng lên từ các thế hệ nghệ sĩ khi kết thúc đêm biểu diễn nghệ thuật đón nhận Danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang” vẫn còn âm vang trong đầu của tôi cho tới tận hôm nay…
“Hát mãi khúc quân hành” như một câu chuyện kể bằng những hình ảnh kết hợp với phần trình diễn của các nghệ sĩ được tái hiện một cách sống động. Âm nhạc được chọn một cách kỹ càng kết hợp nhuần nhị những hình ảnh của video clip tư liệu với âm thanh cùng hiệu ứng của ánh sáng tạo nên sự sống động, hấp dẫn trên sân khấu.
Đạo diễn và Biên tập của chương trình đã lật lại những sự kiện từng giai đoạn trong 61 năm trôi qua nhưng chỉ cô đọng lại khoảng một giờ đồng hồ, đủ cho mọi người có thể cảm nhận  được về quá khứ tự hào này…

Chuyện kể rằng : Ngày ấy bên bờ sông Lô hiền hòa có một Đoàn Văn công…

Bài hát “Trường ca sông Lô” cùng dàn nghệ sĩ múa với những cành lá Cọ minh họa đã cho người xem trở lại với dòng sông Lô với “Rừng cọ đồi Chè” của miền Trung du Bắc bộ nơi khai sinh ra Đoàn Văn công TW thưở ấy rồi tiếp đó là cuộc kháng chiến chống Pháp với “Hò kéo pháo” tới niềm vui của quân dân miền Tây Bắc trong điệu múa Sạp mừng “Chiến thắng Điện Biên”…và “Tiến về Hà Nội” với “Người Hà Nội” bước tiếp sang một trang sử mới đau thương nhưng bất khuất anh hùng của 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”.
Hình ảnh của từng chiếc máy bay B52 lừng lững cất cánh rời đường băng và bom rơi xuống Hà Nội trút tang tóc xuống người dân lành thủ đô khiến tôi – người đã từng nhiều lần bị B52 tại chiến trường miền Nam ngày nào phải dật thót người…một cảm giác nặng trĩu, con tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực bởi hiệu ứng của âm thanh, ánh sáng hiện đại.
Tôi có cảm giác như mình đang sống trở lại thời kỳ bom đạn ấy…với “Cây gậy Trường Sơn” “Cô gái mở đường” cho đến bài “Chào em cô gái Lam Hồng” và kết thúc “Giải phóng miền Nam”…nhắc nhở về một thời tuổi trẻ vô tư, trong sáng đầy nhiệt huyết với miền Nam ruột thịt, với gian khổ ác liệt của chiến tranh mà trong lòng đang dâng lên nhiều nỗi niềm khó tả… trong buổi tối thưởng thức nghệ thuật hôm nay…
Nhà hát Ca Múa Nhạc VN đã dàn dựng một chương trình nghệ thuật công phu, nhiệt huyết và thật có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay… cũng là để nhắc nhở với thế hệ của ngày hôm nay : Đừng bao giờ quên lãng quá khứ, một quá khứ mà biết bao nhiêu thế hệ tuổi trẻ đã hy sinh vì sự trường tồn của dân tộc, nếu không nói : Chúng ta đã phải đổ bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu xương mới có được như ngày hôm nay.
Hãy nâng niu bảo vệ và gìn giữ, âu cũng là sự biết ơn với những thế hệ đi trước.
  Tp.HCM, tháng Giêng năm 2013    
 NS Trần Mùi