Còn nhớ
hồi tôi học năm 4 khoa tổ
chức buổi ngoại khóa về thơ mới 30 – 45 với diễn giả là hai ông đại thi nhân
Xuân Diệu và Huy Cận. Sau khi ông XD lim dim bồng bềnh với những màn thơ tình
nổi tiếng thì đến lượt ông HC. Ông này mở màn: Nếu nói về độ yêu người thì tôi chưa chắc đã phải đứng sau XD nhưng do XD
nói ái tình hay quá rồi nên tôi xin nói sang lòng ái quốc. Xưa nay tôi thấy
trong các sách giáo khoa, các giáo trình đại học thường viết là các nhà
thơ dòng văn học lãng mạn VN 30 – 45 ủy mị, tiểu tư sản, ngủ quên giữa đời
thường … Tôi thì ko thấy như vậy. Họ, trong đó có anh XD và tôi đang đứng đây
thực sự là những người rất yêu nước và thương nòi. Nói đến đây HC dừng lại và lim dim mỉm cười. Các
bạn chắc đã đọc và học bài thơ Tràng giang của tôi rồi. Nó như thế này:
Tràng
giang
Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài
Tặng Trần Khánh Giư
Tặng Trần Khánh Giư
Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ
thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo
giạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Bài thơ này được HC sáng tác vào tháng 9 – 1929 khi ông vừa tròn 20 tuổi. Trước hàng ngàn SV khoa văn ông hồn hậu và xúc động phân tích về cái hay cái đẹp của Tràng giang với một chất giọng Hà Tĩnh rền vang ấm áp. Ông đọc to câu cuốiKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà rồi nói câu này là tôi thừa kế và phát triển từ bài thơ Hoàng Hạc lâu của nhà thơ đời Đường TQ là Thôi Hiệu. Đó cũng là câu kết trong bài thơ của Thôi Hiệu:
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Bài thơ này được HC sáng tác vào tháng 9 – 1929 khi ông vừa tròn 20 tuổi. Trước hàng ngàn SV khoa văn ông hồn hậu và xúc động phân tích về cái hay cái đẹp của Tràng giang với một chất giọng Hà Tĩnh rền vang ấm áp. Ông đọc to câu cuốiKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà rồi nói câu này là tôi thừa kế và phát triển từ bài thơ Hoàng Hạc lâu của nhà thơ đời Đường TQ là Thôi Hiệu. Đó cũng là câu kết trong bài thơ của Thôi Hiệu:
Câu này
hiểu ra là buổi chiều tà Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng bay là đà trên sông Hán
Dương bèn liên tưởng đến hình ảnh làn khói bếp ở quê nhà khiến nhà thơ buồn mà
nhớ nhà. Đó là lòng hoài cổ và yêu quê hương của Thôi Hiệu. Tôi vẫn nhớ
hình ảnh ông đặt tay lên ngực chỗ có trái tim mà nói: Nhà thơ TQ đời nhà Đường là Thôi Hiệu như
thế đã hay đã đẹp lắm đến mức hàng ngàn năm nay bút mực thên hạ tả khôn xiết
nhưng nhà thơ Huy cận của VN vào năm 1929 khi mới chỉ 20 tuổi đã yêu đất nước
đến mức không hề có khói hoàng hôn như Thôi Hiệu mà vẫn nhớ nhà nhớ quê hương
đang bi thương vì chiến tranh loạn lạc. Chứng tỏ lòng yêu nước của HC lớn hơn
cả lòng yêu nước của Thôi Hiệu.
Nói rồi
HC hấp háy mắt ra chiều tự hào lắm. Và tôi thấy đúng là như vậy. Một sự kế thừa
và phát triển xuất sắc về thi pháp của HC từ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu.
Ông
cũng nói thêm về câu thứ hai từ dưới lên của Tràng giang Lòng quê dợn dợn vời con nước nhiều người đã đọc và chép sai
chữ dợn dợn thành
ra dờn dợn như thế
là sai về cơ bản ko hiểu hết ý thơ của ông. Theo ông đã có đến 50 % các bản in
sai câu thơ này.
Sau này
mỗi lần lên lớp giảng Hòang Hạc lâu cho SV tôi lại được dịp đọc to và bình
những câu thơ kinh điển nhưBạch vân thiên tải không
du du và kể cho các bạn SV của mình nghe câu
chuyện HC với Tràng giang trong buổi ngoại khóa ngày xưa ấy để mở rộng
thêm sự súc tích và ý nghĩa bài thơ.
Nó
đây: Hoàng
Hạc Lâu
Tích
nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa
không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng
Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch
vân thiên tải không du du
Tình
xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương
thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ
hương quan hà xứ thị
Yên ba
giang thượng sử nhân sầu
Dịch Nghĩa:
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi mất rồi
Lầu hạc vàng còn trơ lại đây
Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa
Mây trắng nghìn thu lởn vởn hoài ...
Mặt sông, lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời tối rồi đâu là quê hương mình
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến người sinh buồn.
Nhà
thơ Tản Đà đã dịch HHL và cho đến nay vẫn được coi là hay nhất trong hàng mấy
chục bản dịch khác:
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Với tôi
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu thực sự là bài thơ hay nhất trong hàng trăm vạn bài
Đường thi. Hay đến nỗi tài thơ như Lý Bạch mà khi đến Hoàng Hạc lâu vãn
cảnh làm thơ, thấy thơ của Thôi Hiệu đề trên vách lầu đã ném bút không dám
đề thơ nữa chỉ nói được hai câu cảm thán:
Trước
mắt có cảnh viết không được
Vì thơ
Thôi Hiệu ở trên đầu
Giai
thoại là thế, Lý Bạch là thi tiên của đời Đường, là người uống một đấu rượu làm
một nghìn bài thơ (Lý Bạch đấu tửu thi bách thiên) vậy mà phải gác bút trước
HHL của Thôi Hiệụ.
Ôi
người xưa tài ba lỗi lạc mà khiêm nhường làm sao.
Lầu Hoàng Hạc ở góc tây nam thành Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc TQ là một nơi sông núi kỳ vĩ diệu vợi, thời Thôi Hiệu làm thơ cũng là một nơi như là cõi tiên giữa cõi trần. Truyền thuyết cho rằng Phí Văn Vi tu luyện thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở lầu Hoàng Hạc. Đó là nơi người trần thế đến bỗng thấy chênh vênh giữa cõi tiên và cõi tục .
Bài thơ Thôi Hiệu ghi được nỗi cảm hoài của một kẻ lãng du, lãng tử, phiêu bạt trần ai xa quê hương và khi xa nhất cũng chính là lúc lòng nhớ quê bỗng trở nên da diết nhất, và khi đó một nỗi buồn trầm lắng thăm thẳm hoài cổ chợt hiện ...
Bài thơ còn hay về sự tả một phong cảnh thiên nhiên có một không hai của chốn sông Hán Dương nơi có lầu Hàng Hạc. Từ một tòa lầu không, mây trắng vờn bay, từ con sông tạnh ánh tà dương phía xa xa, bãi cỏ thơm xanh rì phía trước. Những câu thơ như là một thứ âm nhạc vang lên một nỗi buồn sâu lắng day dứt.
Lầu Hoàng Hạc ở góc tây nam thành Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc TQ là một nơi sông núi kỳ vĩ diệu vợi, thời Thôi Hiệu làm thơ cũng là một nơi như là cõi tiên giữa cõi trần. Truyền thuyết cho rằng Phí Văn Vi tu luyện thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở lầu Hoàng Hạc. Đó là nơi người trần thế đến bỗng thấy chênh vênh giữa cõi tiên và cõi tục .
Bài thơ Thôi Hiệu ghi được nỗi cảm hoài của một kẻ lãng du, lãng tử, phiêu bạt trần ai xa quê hương và khi xa nhất cũng chính là lúc lòng nhớ quê bỗng trở nên da diết nhất, và khi đó một nỗi buồn trầm lắng thăm thẳm hoài cổ chợt hiện ...
Bài thơ còn hay về sự tả một phong cảnh thiên nhiên có một không hai của chốn sông Hán Dương nơi có lầu Hàng Hạc. Từ một tòa lầu không, mây trắng vờn bay, từ con sông tạnh ánh tà dương phía xa xa, bãi cỏ thơm xanh rì phía trước. Những câu thơ như là một thứ âm nhạc vang lên một nỗi buồn sâu lắng day dứt.
Nguồn
gốc của Hoàng Hạc Lâu: Ở thời
cuối Ðông Hán thế kỷ thứ 3 vào năm 223, vua nước Ngô ở thời đại Tam Quốc là Tôn
Quyền ra lệnh xây thành Giang Hạ (Hạ Khẩu) bên ngã ba sông Trường Giang và Hán
Thủy để đóng quân. Trong cái thế Tam quốc thời đó, Hạ Khẩu là một thành trì
chiến lược rất quan trọng vì tam quốc đều cho rằng phe nào chiếm được Hạ Khẩu
thì phe đó sẽ chiến thắng cuộc chiến.
Vì thế, nhằm để theo dõi binh tình, Tôn Quyền cho xây trên góc một ngọn đồi nhỏ cạnh sông Trường Giang một tháp quan sát bên phía tây nam của thành Giang Hạ để theo dõi binh tình. Ðứng trên tháp, người ta có thể quan sát được thuyền bè di chuyển trên sông Hán Thủy và phía tây của Trường Giang. Tháp quan sát này được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu.
Cho đến ngày nay, không ít người đã không hiểu vì sao tháp lại có tên là lầu Hoàng Hạc, một cái tên có vẻ trong câu chuyện thần tiên hơn là một cái tên dùng trong giới quân sự. Dân tộc Trung Hoa thường có quan niệm “Thiên Nhân hợp nhất” nên họ thường hay thiên về những câu chuyện thần tiên trong bất cứ các câu chuyện lịch sử, đền đài hay bảo tháp. Vì vậy, câu chuyện về ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô thời Tam Quốc cũng đã nhuốm ít nhiều màu sắc những câu chuyện thần tiên
Vì thế, nhằm để theo dõi binh tình, Tôn Quyền cho xây trên góc một ngọn đồi nhỏ cạnh sông Trường Giang một tháp quan sát bên phía tây nam của thành Giang Hạ để theo dõi binh tình. Ðứng trên tháp, người ta có thể quan sát được thuyền bè di chuyển trên sông Hán Thủy và phía tây của Trường Giang. Tháp quan sát này được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu.
Cho đến ngày nay, không ít người đã không hiểu vì sao tháp lại có tên là lầu Hoàng Hạc, một cái tên có vẻ trong câu chuyện thần tiên hơn là một cái tên dùng trong giới quân sự. Dân tộc Trung Hoa thường có quan niệm “Thiên Nhân hợp nhất” nên họ thường hay thiên về những câu chuyện thần tiên trong bất cứ các câu chuyện lịch sử, đền đài hay bảo tháp. Vì vậy, câu chuyện về ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô thời Tam Quốc cũng đã nhuốm ít nhiều màu sắc những câu chuyện thần tiên
Một giả
thiết khác nghe có vẻ thần thoại hơn và tôi thích nghiêng về sự lí giải này: Ở vào thời chiến quốc, một hôm vua nước Ngô
là Phù Sai thường gọi là Ngô Vương Phù Sai cùng quần thần cưỡi ngựa đi săn. Khi
vừa đến bờ sông Hán Dương thì thấy từ giữa bãi cỏ non xanh rì một con hạc màu
vàng đập cánh bay lên. Nhà vua
thấy trong lòng rất xúc động bèn sai xây một cái lầu ngay chỗ con hạc vàng cất
cánh để ghi lại một kỉ niệm đẹp (Chợt nghĩ rằng làm vua cũng sướng thiệt. Tôi
mà như thế thì ở đâu trên đất nước này cũng có lầu kiểu như lầu Hoàng Hạc).
Lầu Hoàng Hạc, ảnh chụp từ năm 1920
Lầu Hoàng Hạc nay
1- Có một giai thoại nữa về Hoàng Hạc Lâu
Trả lờiXóaNgày xưa nơi có lầu Hoàng Hạc bây giờ là một quán rượu. Ngày nọ một tửu khách dáng dấp như đạo sĩ vào quán, uống xong rượu không có tiền trả, xin khất nợ, chủ quán vui vẻ đồng ý. Hôm sau người khách ấy đến uống rượu và lại xin khất nợ chủ quán vẫn tươi cười nhận lờì, cứ như thế suốt cả tháng. Một hôm người khách bảo chủ quán, hôm nay tôi trả nợ cho ngài, nói rồi khách lấy vỏ cam la liệt trên bàn vẻ nột con chim hạc dán lên tường và lặng lẽ ra đi. Từ đó hể có khách vào quán thì chim hạc từ bức vẻ bay ra nhảy múa mua vui cho khách. Khách vào quán ngày càng đông và chủ quán trở nên giàu có nhất vùng. Ít lâu sau người khách đạo sĩ đến, chim hạc vổ cánh bay ra cho người khách cưỡi lên rồi bay đi mất
2- Đọc Tràng giang tui cứ nghĩ đến Hoàng hạc lâu, cả hai đều gợi buồn, chỉ khác là ở câu cuối một lần Thôi Hiệu “sử nhân sầu”, thì Huy Cận liên tiếp “buồn điệp điệp”, “Sầu trăm ngả”, “bến cô liêu”. “Lớp lớp mây cao đùn sóng bạc” gợi nhớ “Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”, “lặng lẽ bờ xa tiếp bãi vàng” làm liên tưởng đến “Bãi xa anh vũ xanh dày có non”…Tức là Huy Cận lập tứ từ Hoàng Hạc Lâu, và tác giả chợt thấy phải thoát ra khỏi cái bóng của Thôi Hiệu nên vội cải tiến “Trên sông khói sóng cho buồn loàng ai” thành ra “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Mới ngần ấy thôi mà nhà thơ đã đặt tay lên ngực chỗ có trí tim mà tuyên bố “ …lòng yêu nước của HC lớn hơn cả lòng yêu nước của Thôi Hiệu…”. Không nói thẳng ra thôi chứ ông muốn mọi người hiểu rằng Tràng giang và Hoàng Hạc lâu ngang ngửa nhau chứ chẳng vừa. Đúng là văn mình vợ người không hơn không kém.
3- Nhân thể cũng nói thêm, khái niệm nước, quê hương, giữa Thôi Hiệu và Huy Cận khác nhau nhiều lắm. Với Thôi Hiệu nước thuần túy là sơn hà xã tắc, là triều đình và thần dân nhà Đường. Còn Huy Cận thì sơn Hà xã tắc đã bị méo mó bới cụm từ XHCN. Yêu nước thời ông là yêu nước XHCN dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản theo đường lối “duy nhất đúng” là chủ nghĩa Mác Lê nin. Trong cái nước ấy có những con người khác thường đưa ra đường lối văn nghệ khác thường. Mùa hè 1950 tại hội nghị Văn nghệ toàn quốc ở Việt bắc ông Tố Hữu đề nghì bỏ vọng cổ, bỏ kịch thơ, vì những thứ đó rền rỉ bi lụy làm nhụt tình thần chiến đấu của chiến sĩ. Bản thân ông Huy Cận đề nghi trường nhạc Việt Nam dạy kí âm ngũ cung: họ, xự, xàng , xê…chứ không học đô, rê, mi…của Tây phương. Với ông thứ trưởng bộ Văn hóa như vậy thì mới cải tiến câu thơ rất đẹp của Thôi Hiệu mà đã vổ ngực (thì chỉ vào ngực cũng thế) cho ta là yêu nước hơn Thôi Hiệu cũng là phải.
Bulukhin NQT@: Thiệt đáng nể với cái comment của bác Bu. lại rất trúng ý em nữa.
Trả lờiXóaThế là hiểu nhau!
Trả lờiXóadạ, cũng chỉ mong có rứa
XóaThuở nhỏ đọc TG của HC, cảnh thiên nhiên dợn dợn, sông dài, trời rộng, sâu... tâm hồn non trẻ nhà ta
Trả lờiXóaThưở nhỏ đầu óc tụi mình như trang giấy trắng. Viết gì lên đó là nằm lại đến giờ.
XóaĐoc Tràng giang của Huy Cận mình thích nhất câu:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Thỉnh thoảng vô đọc và để lại còm như ri nhé đồng đội C20, F341.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa