Ngày 20 tháng 11 đến và chúng tôi nhớ về những người thầy thân yêu và đáng kính trọng của mình. Từ GL, Chử Anh Đào gửi xuống một bài viết về Thầy Nguyễn Cảnh Phức, thầy giáo dạy Hán - Nôm thời cao học của bọn mình. Cảm ơn bạn.
Chử Anh Đào
Kính tặng thầy Nguyễn Cảnh Phức
Đã là xa lắm rồi các gia đình ở phố không còn dùng bếp củi, bếp than, bếp dầu mà dùng bếp điện, bếp ga tiện lợi. Nhưng sáng nay- một buổi sáng dã ngoại đầu mùa khô, khi mà cành lá chúng tôi vun lại để nhóm lửa còn sũng nước của cơn mưa cuối mùa mấy ngày trước lâu chịu bắt lửa, khói mù mịt, cay nồng xộc vào mũi tôi như một kỉ niệm chưa xa. Và tôi nhớ tới thầy.
Thầy quê Nghệ. Dáng người rất phổ thông, bình thường, không gì đáng để ý, người đời dễ quên ngoài cặp mắt tinh anh, xếch và luôn ánh cười. Cái cười bằng miệng bị khóa lại bởi đôi môi mím chặt thì lại toát ra bằng mắt, đa nghĩa gấp nhiều lần. Quanh năm thầy đánh đôi giày cô sơ ghin- một loại giày sĩ quan cao cổ của Nga rất dày và cứng đi cùng năm tháng. Quần áo ka ki màu cỏ úa xoàng xĩnh không là ủi. Chỉ có cái túi quần luôn căng phồng ( sau này chúng tôi mới phát hiện ra thay vì là mu soa thì Người nhét cả cái khăn mặt vào đấy. Đều đặn chiều thứ bảy thầy dắt xe đạp “ Thống Nhất”- cái xe mà “ tất cả mọi thứ đều kêu, trừ cái chuông”, xà cột bên hông, lỉnh kỉnh một ba lô căng phồng sau poocbaga lên đường về quê. Trông thầy giống một ông cán bộ chính sách ở huyện vùng cao, chả có dấu hiệu gì của trí thức hạng nặng, giảng viên một trường có uy tín đứng đầu miền Trung và danh giá trong cả nước.
Thầy dạy chúng tôi môn Hán- Nôm. Thầy bảo: người ta nói Hán- Nôm là tử ngữ. Nhưng cả một nghìn năm di sản văn hóa ông cha nằm cả đấy. Chói lọi như “ Nam quốc sơn hà”, “ Hịch các tì tướng”, “ Bạch đằng giang phú”, “ Bình Ngô đại cáo”…đều viết bằng chữ Hán. Giờ đây các cụ Bùi Duy Anh, Lê Thước, Bùi Kỉ…đã về cõi. Lại cái đận chiến tranh biên giới 1979, ghét bọn Tàu xâm lược quá, ta giải thể các khoa Trung văn ở các trường đại học. Nhiều thầy giáo phải giải nghệ. May lắm thì về làm bảo vệ kiêm đánh trống ở trường cấp 3…Thành ra môn này bây giờ có một khoảng trống. Các ông là những người bây giờ góp phần lấp đầy khoảng trống ấy. Chúng tôi sợ. Sao lịch sử lại chọn những thằng chân đất mắt toét làm điểm tựa? Lại đè đầu cưỡi cổ mà giao nhiệm vụ nặng như núi Thái Sơn cho chúng tôi? Nhưng nói gì thì nói, môn này thực sự là nỗi kinh hoàng của những người học. Hết thảy mọi người đều toát mồ hôi hột vào mùa đông và run như cầy sấy vào mùa hè bời bời gió Lào dội lửa xuống muôn loài, nóng tới mức “ đực – cái cũng không nghĩ tới nhau” ( Nguyễn Tuân)- mà méo mồm vẽ chữ, y như AQ của Lỗ Tấn khi xưa cố khuyên một vòng tròn thay chữ kí trước khi lên giàn xử giảo. Chúng tôi viết chậm, viết sai, thầy không cáu giận, coi thường mà ân cần chỉ bảo. “ Không sao cả, Thánh cũng có lúc nhầm, lúc sai”- thầy an ủi những Thi, những Hạnh- hai ông “ vua quên” và “ quan quên” của lớp. Thầy đem chuyện Ngu Công dời núi để ngụ ngôn về sự kiên trì. Tất cả những “ Tử viết”, “ Tử Cống vấn viết”, “ Thế thiên hành hóa”, “ Dư thường văn chi”, “ chi, hồ, giả, dã…” rối như canh hẹ, như chông như chà, như ngổn ngang qua trầm kích triết được thầy diễn giảng bằng một thữ ngôn ngữ tiếng Việt cực kì trong sáng và dễ hiểu. Những đầu óc u tối “ mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” của chúng tôi được khai sáng, những con ếch ngồi đáy giếng được mở rộng tầm nhìn, được ngụp lặn tha hồ trong cái mênh mông bể Sở của tri thức cổ văn dân tộc. Thầy thổi hồn vào các con chữ đã có mấy nghìn năm tuổi để chúng tôi thêm hiểu cha ông mình.
Mười lăm năm, đúng bằng một đời Kiều lưu lạc, tôi ra Vinh chuẩn hóa cao học.Vượt qua những vận đổi sao dời, bãi bể nương dâu, thầy tiếp tôi bằng nguyên vẹn nụ cười thủa trước. Vẫn gian nhà tập thể 9 mét vuông. Vẫn bể nước gắn bằng năm viên ngói xi măng bên dãy bếp thấp le te mịt mù những khói phía trước. Thầy nắm chặt tay tôi hồi lâu rồi hai thầy trò cùng đi chợ. Thầy giành trả tiền. Ví của thầy không ốm o còm cõi như trước mà ninh nich những tờ hai chục, năm chục. Mua hết các thứ, còn năm nghìn hành tỏi mà thầy lại đi hai sạp hàng khác nhau. Tới nhà, đã gần 12 giờ trưa, trời chang chang nắng. Ngay cổng sau cũng có bia bán nhưng thầy lại làm một cuộc trường chinh gần một cây số nữa. “ Đó là chỗ quen, rẻ được cả nghìn đồng một chai”- thầy bảo thế.
Trong xoong còn gần nửa tô hoa chuối xào lòng lợn. Thầy do dự và hỏi: Đ. có dùng được món này không? Tôi thưa: thầy coi em là loại người nào? ( Tôi dứt khoát không như một số người hiện nay khi thăng quan tiến chức lại kiêng món này món nọ, phải dứt khoát không ăn một món nào đấy mới thành nhân cách lớn lao(!)
Ngẫm ra có những cái tốt đẹp trên cõi đời này tồn tại rất lâu bền. Không có thời gian và lực lượng thù địch nào tàn phá nổi. Thầy tôi là một trường hợp vậy chăng?
Khói lên, bên phía trời xa kia hình như là bóng thầy tôi đang lặng lẽ tỏa ngời./.
Chử Anh Đào
Kính tặng thầy Nguyễn Cảnh Phức
Đã là xa lắm rồi các gia đình ở phố không còn dùng bếp củi, bếp than, bếp dầu mà dùng bếp điện, bếp ga tiện lợi. Nhưng sáng nay- một buổi sáng dã ngoại đầu mùa khô, khi mà cành lá chúng tôi vun lại để nhóm lửa còn sũng nước của cơn mưa cuối mùa mấy ngày trước lâu chịu bắt lửa, khói mù mịt, cay nồng xộc vào mũi tôi như một kỉ niệm chưa xa. Và tôi nhớ tới thầy.
Thầy quê Nghệ. Dáng người rất phổ thông, bình thường, không gì đáng để ý, người đời dễ quên ngoài cặp mắt tinh anh, xếch và luôn ánh cười. Cái cười bằng miệng bị khóa lại bởi đôi môi mím chặt thì lại toát ra bằng mắt, đa nghĩa gấp nhiều lần. Quanh năm thầy đánh đôi giày cô sơ ghin- một loại giày sĩ quan cao cổ của Nga rất dày và cứng đi cùng năm tháng. Quần áo ka ki màu cỏ úa xoàng xĩnh không là ủi. Chỉ có cái túi quần luôn căng phồng ( sau này chúng tôi mới phát hiện ra thay vì là mu soa thì Người nhét cả cái khăn mặt vào đấy. Đều đặn chiều thứ bảy thầy dắt xe đạp “ Thống Nhất”- cái xe mà “ tất cả mọi thứ đều kêu, trừ cái chuông”, xà cột bên hông, lỉnh kỉnh một ba lô căng phồng sau poocbaga lên đường về quê. Trông thầy giống một ông cán bộ chính sách ở huyện vùng cao, chả có dấu hiệu gì của trí thức hạng nặng, giảng viên một trường có uy tín đứng đầu miền Trung và danh giá trong cả nước.
Thầy dạy chúng tôi môn Hán- Nôm. Thầy bảo: người ta nói Hán- Nôm là tử ngữ. Nhưng cả một nghìn năm di sản văn hóa ông cha nằm cả đấy. Chói lọi như “ Nam quốc sơn hà”, “ Hịch các tì tướng”, “ Bạch đằng giang phú”, “ Bình Ngô đại cáo”…đều viết bằng chữ Hán. Giờ đây các cụ Bùi Duy Anh, Lê Thước, Bùi Kỉ…đã về cõi. Lại cái đận chiến tranh biên giới 1979, ghét bọn Tàu xâm lược quá, ta giải thể các khoa Trung văn ở các trường đại học. Nhiều thầy giáo phải giải nghệ. May lắm thì về làm bảo vệ kiêm đánh trống ở trường cấp 3…Thành ra môn này bây giờ có một khoảng trống. Các ông là những người bây giờ góp phần lấp đầy khoảng trống ấy. Chúng tôi sợ. Sao lịch sử lại chọn những thằng chân đất mắt toét làm điểm tựa? Lại đè đầu cưỡi cổ mà giao nhiệm vụ nặng như núi Thái Sơn cho chúng tôi? Nhưng nói gì thì nói, môn này thực sự là nỗi kinh hoàng của những người học. Hết thảy mọi người đều toát mồ hôi hột vào mùa đông và run như cầy sấy vào mùa hè bời bời gió Lào dội lửa xuống muôn loài, nóng tới mức “ đực – cái cũng không nghĩ tới nhau” ( Nguyễn Tuân)- mà méo mồm vẽ chữ, y như AQ của Lỗ Tấn khi xưa cố khuyên một vòng tròn thay chữ kí trước khi lên giàn xử giảo. Chúng tôi viết chậm, viết sai, thầy không cáu giận, coi thường mà ân cần chỉ bảo. “ Không sao cả, Thánh cũng có lúc nhầm, lúc sai”- thầy an ủi những Thi, những Hạnh- hai ông “ vua quên” và “ quan quên” của lớp. Thầy đem chuyện Ngu Công dời núi để ngụ ngôn về sự kiên trì. Tất cả những “ Tử viết”, “ Tử Cống vấn viết”, “ Thế thiên hành hóa”, “ Dư thường văn chi”, “ chi, hồ, giả, dã…” rối như canh hẹ, như chông như chà, như ngổn ngang qua trầm kích triết được thầy diễn giảng bằng một thữ ngôn ngữ tiếng Việt cực kì trong sáng và dễ hiểu. Những đầu óc u tối “ mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” của chúng tôi được khai sáng, những con ếch ngồi đáy giếng được mở rộng tầm nhìn, được ngụp lặn tha hồ trong cái mênh mông bể Sở của tri thức cổ văn dân tộc. Thầy thổi hồn vào các con chữ đã có mấy nghìn năm tuổi để chúng tôi thêm hiểu cha ông mình.
Thầy là người rất chăm chỉ nhặt nhạnh. Tất cả những thứ trên đường đi, từ mẩu dây thun, cái đinh, con ốc, bù loong…đều không thoát khỏi con mắt và đôi tay thầy. Thầy dồn nhiều công sức tới mức chúng tôi nghĩ: hễ cứ thấy ai lúi húi bên đường đi thì ắt hẳn là thầy. Có lần bắt gặp thầy đang khom khom xúc rửa mấy cái bì ni lon bên vòi nước công cộng, thầy không lấy làm mắc cỡ, cũng chẳng thanh minh thanh nga mà cảnh báo: “ Các cậu đừng cười tớ. Cười người hôm trước hôm sau người cười. Sẽ có lúc phải cần đến nó.” Mấy hôm sau anh Thi đóng rương cho cô bồ ở lớp đại học đến phòng thầy xin đinh thật! Thầy định nghĩa củi là tất cả những gì cháy được mà không độc. Trung thành với quan niệm này, thế giới trong mắt thầy là thế giới củi. Có lần tôi gặp thầy ở chợ Quyết về, một tay là cái túi xác rắn, một tay là tòng teng một đoạn tre khô, vừa đi vừa ngửa mặt cả cười. Ngày ra trường, bạn Thân trong lớp cưới vợ, thầy mừng đôi uyên ương một bó củi tiết kiệm tổng hợp. Cảm động biết bao. Bó củi thấm đẫm mồ hôi và nhọc nhằn công sức của bao tháng ngày gom góp không mệt mỏi của thầy.
Thầy nhìn tất cả các khía cạnh của cuộc sống dưới góc độ của cái hài. Những năm của thập niên 80 của thế kỉ trước là những năm cơ khổ. Con người như đang sống một kiếp nào khác chứ không phải là người. Tháng bốn lần dậy từ một, hai giờ sáng xếp hàng mua lương thực. Ba phần tư là bo bo- cái thứ ăn vào, lúc thải ra còn làm được thức ăn chăn nuôi gà vịt nữa. Thầy chế bo bo thành năm món: luộc, hấp, rang, xào, cháo. “ Cứ như thế rồi hết tuần, hết tháng, hết năm…hết đời!” Một lần thầy trúng quả được phân phối mua một cái áo may ô ba lỗ. (Thời ấy “ bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới được phần may ô”. Được phân phối áo là cả cái lộc lớn) Áo, cái nào chẳng giống cái nào mà thầy lật qua lật lại, chọn, lựa, tuyển cả tiếng đồng hồ. Cô bán căng tin sốt ruột: “ Ông này phiền quá”. Thầy bảo: “ Thì mình tên là Phức mà lại.” Lớp có cô Ngọ kiểm tra không làm được bài, năn nỉ: “ Thầy thông cảm. Em còn bận con cái.” Thầy cười cười: “ Cô bận con đực thì có.” Đến chơi nhà ông tổ trưởng, bí thư chi bộ. Vòng vo thế nào lại đi vào chủ đề vĩ mô: sự tiến hóa của loài người qua các thời đại. Đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đồ sắt…thì đúng rồi. Thầy bổ sung thêm: “ Theo tôi thời đại này là thời đại đồ…đểu” Ông kia mời thầy ra khỏi nhà. Người ra đi đầu còn ngoảnh lại: “ Thấy chưa, tôi nói có đúng không?” Tóm lại lẽ ra đáng khóc thì thầy lại cười. Cái cười thể hiện tư thế chủ động của người đứng cao hơn hoàn cảnh, vượt lên trên hoàn cảnh. Nó đem lại một sức mạnh nào đấy để tự tin mà sống.Mười lăm năm, đúng bằng một đời Kiều lưu lạc, tôi ra Vinh chuẩn hóa cao học.Vượt qua những vận đổi sao dời, bãi bể nương dâu, thầy tiếp tôi bằng nguyên vẹn nụ cười thủa trước. Vẫn gian nhà tập thể 9 mét vuông. Vẫn bể nước gắn bằng năm viên ngói xi măng bên dãy bếp thấp le te mịt mù những khói phía trước. Thầy nắm chặt tay tôi hồi lâu rồi hai thầy trò cùng đi chợ. Thầy giành trả tiền. Ví của thầy không ốm o còm cõi như trước mà ninh nich những tờ hai chục, năm chục. Mua hết các thứ, còn năm nghìn hành tỏi mà thầy lại đi hai sạp hàng khác nhau. Tới nhà, đã gần 12 giờ trưa, trời chang chang nắng. Ngay cổng sau cũng có bia bán nhưng thầy lại làm một cuộc trường chinh gần một cây số nữa. “ Đó là chỗ quen, rẻ được cả nghìn đồng một chai”- thầy bảo thế.
Trong xoong còn gần nửa tô hoa chuối xào lòng lợn. Thầy do dự và hỏi: Đ. có dùng được món này không? Tôi thưa: thầy coi em là loại người nào? ( Tôi dứt khoát không như một số người hiện nay khi thăng quan tiến chức lại kiêng món này món nọ, phải dứt khoát không ăn một món nào đấy mới thành nhân cách lớn lao(!)
Lai rai nhậu. Thầy nói chuyện vui rằng mấy năm nay dễ thở hơn vì có việc làm thêm: đi dạy ở các trung tâm, phiên dịch. Nhưng tiền thì bao nhiêu cho vừa, vả lại chưa chắc có tiền đã sướng. Năm ngoái mua lại cái Drem cũ, máy lì lắm, chỉ được cái nổ rất to, không cần còi. Ống pô thì phun ra cả khói và lửa. Về quê như mang cả âm thanh đạn bom hồi chiến tranh phá hoại. Tháng trước tông phải bò nhà ông chú. Bò gãy cẳng, người sái vai. Thôi thì cứ xe đạp vừa túc tắc vừa thể dục cho nó lành… Chuyện vui mà giọng thầy nghe xa vắng, như có trộn cả “ thế tứ giao di” trong đó.
Khi tôi khoe mình cũng có những ham muốn chưa nguội lạnh, viết được mấy cuốn sách và mấy công trình nghiên cứu, thầy khen giỏi và buông một câu như tiếng thở dài: “ Mình bây giờ lão giả an tri rồi”. Nghe mà thương quá. Mình nói: “ Em vẫn làm theo lời cảnh báo của Lão Tử mà thầy dạy chúng em: họa, không gì lớn bằng không biết đủ”Ngẫm ra có những cái tốt đẹp trên cõi đời này tồn tại rất lâu bền. Không có thời gian và lực lượng thù địch nào tàn phá nổi. Thầy tôi là một trường hợp vậy chăng?
Khói lên, bên phía trời xa kia hình như là bóng thầy tôi đang lặng lẽ tỏa ngời./.
Plei Ku. Viết lại 11-11-2011
C.A.Đ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới