Trần
Kỳ Trung
Nhận được thiếp mời của Vũ Tiến Thu,
mời vào Sài Gòn dự đám cưới của con. Thu với mình một thời cùng công tác và
giảng dạy ở khoa Sử - Chính trị, trường Đại học sư phạm Quy Nhơn. Nghĩ đây là
ngày vui của bạn, biết đâu cũng là cơ hội để gặp lại bạn cũ, mình đi liền.
Đang ở Hội An, có lẽ cũng quen một
không gian trầm, nhẹ, thưa của bước chân, thân và ngọt của sự giao tiếp, đến
Sài Gòn vào buổi sáng gần cuối xuân, chớm hè, mình thấy hơi bị ngợp. Ngợp tiếng
còi xe, ngợp với những sóng mũ bảo hiểm nhấp nhô trên đường và ngợp của những
bóng người trên những chiếc xe máy vun vút lướt ngang qua cửa quán cà phê khi
mình ngồi bên trong nhìn ra… nhưng thế thôi, như thằng cháu nói:“ Chú ở đây,
nửa ngày là quen!”. Mà quen thật! Bình tĩnh điện cho Nhà văn Nguyễn Quang Lập,
Lập vồn vã “ Ông đang ở đâu?...được rồi… không nói nữa, chiều thứ ba gặp nhau
tại quán Ziều Đỏ của Nhà thơ Đỗ Trung Quân”. Tiếp đến nhà báo Lê Thiếu Nhơn hồ
hởi: “ Anh vào khi nào? Trưa mai đến em, rồi đi ăn cơm” Rồi Hà Tùng Sơn, ông
bạn vàng, giống mình ưa dịch chuyển. Đang là cán bộ giảng dạy ngon lành ở khoa
văn, ĐHSP Quy Nhơn, không hiểu sao lại chuyển sang một ngành chẳng dính dáng
chút nào về giáo dục là truyền hình, bây giờ lại quay về nghề cũ, gõ đầu trẻ.
Có điều không ở Quy Nhơn mà Sơn vào Sài Gòn. Nghe thấy giọng của mình qua điện
thoại, Sơn nói rất vui: “ Thôi nhé ! Đừng hẹn với ai nữa, tôi với ông phải ngồi
với nhau trong trưa mai …”. Đấy là chưa kể mấy bạn văn nữa lại hẹn, lại
mong…thời gian có hạn, đành thể tất. Chỉ thế thôi, tự nhiên thấy Sài Gòn không
còn bị “ ngợp” mà như thân quen rất lâu rồi.
Tại quán cfe Tiếng Thu của Vũ Tiến Thu ở Thảo Điền quận 2. Trái sang: Trần Kỳ Trung, Vũ Tiến Thu, Hà Tùng Sơn và thằng cu cháu ngoại của Thu
Dự đám cưới con của bạn, nhiều lúc bần
thần, bây giờ là chuyện của nó, chẳng mấy chốc lại chuyện của mình, cũng phải
lo chuyện đám cưới cho con. Thấy Thu cứ tất bật chạy ra rồi chạy vào, dặn dò MC
đừng chọc cười rẻ tiền, đến chỗ này xem lại chỗ ngồi khách mời, đến chỗ kia
giới thiệu hai họ…mà thương cho nó. Cũng bươn trải, cũng phải lăn lộn giữa cuộc
sống đầy gió và bụi này, trông Thu già trước tuổi. Thấy mình vào dự đám cưới
của con, Thu mừng: “ Anh sẽ gặp được nhiều bạn bè và học sinh cũ của anh em
mình, mọi người thấy anh, chắc rất ngạc nhiên!”.
Cũng buồn cười, xem thiệp mời của Thu
đề rõ ràng là đám cưới tổ chức lúc 17h30, cứ nghĩ như ở Hội An, mình đến đúng
giờ, ai ngờ…! phải đến gần hai tiếng sau mới vào tiệc. Mình thắc mắc, Thu giải
thích :“ Ở Sài Gòn giờ toàn thế cả, anh đến đúng giờ, có khi ngồi một mình, một
bàn mà chờ. Thôi, anh ra đón khách cùng em”. Khách đến, mình vui gặp lại nhiều
đồng nghiệp cũ, mọi người thấy mình tay bắt, mặt mừng. Nhìn những đồng nghiệp
cũ, mới đó đã hơn ba mươi năm, thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ.
Giờ nhìn ai trên đầu tóc cũng điểm bạc, dáng cũng đã biểu hiện sự chậm chạp,
người lên chức “ ông”, chức “bà”, bây giờ giống mình, đều đến tuổi về hưu. Duy
nhất một điều mình thấy không thay đổi, đó là tình cảm. Ngồi lại quên cả chuyện
đang dự đám cưới. Vội chúc mừng cô dâu, chú rể, vội chụp ảnh với gia đình hai
họ, giơ ly, nở nhanh nụ cười, trao phong bì mừng, rồi quay ra ngay ôn với nhau
chuyện xưa, cứ y như nó mới xảy ra ngày hôm qua. Cái ngày hành trang vào đời
chỉ có mấy bộ quần áo, mấy tập giáo trình, ăn uống cực thậm khổ như lại giàu
có, vô cùng giàu có về sự nhiệt tình. Cái nhiệt tình đôi lúc mang hơi hướng
nghĩa khí của một tính cách lãng tử, bất chấp. Lúc đó đúng là thế thật, những
giảng viên trẻ như mình mới về trường ĐHSP Quy Nhơn không hề tính toán so đo
thiệt hơn về quyền lợi cá nhân, cũng không hề ao ước có một căn nhà riêng có đủ
tiện nghi vật chất mà chỉ có một nguyện vọng là cống hiến, là trở thành những
giảng viên đại học giỏi, giỏi cả “ tâm” lẫn “tài”. Than ôi! Ước mơ đó là đẹp,
không ai phủ nhận nhưng sau này đem lại kết quả như thế nào… bây giờ ngồi lại,
nhắc những kỷ niệm đó, mọi người đều cười, cười nghiêng ngả!!! Một người nói :
“ Hồi đó chúng mình giống như những thằng, những con bị ma ám nên hay hoang
tưởng”. Thôi, không nhắc lại nữa, trong ngày vui con của bạn, chúng ta hãy cạn
chén mừng cho bạn sắp lên “ông”. Thu nói đúng, Hôm nay mình gặp rất nhiều em
sinh viên khóa I, lớp Sử - Chính trị , trường ĐHSP Quy Nhơn mà mình đã từng chủ
nhiệm. Các em thấy mình vào, tự động đến chào, bắt tay, ánh mắt nhìn thầy giáo
chủ nhiệm cũ cảm động. Thật mừng, nếu điểm lại, nhiều trò đã hơn thầy trên tất
cả phương diện. Có em nay là một đạo diễn, quay phim tài liệu nổi tiếng. Có em
đã là Vụ trưởng ở một vụ trong một Bộ quan trọng, có em là Tổng biên tập một tờ
báo có uy tín, số lượng bạn đọc đông … Tiếng “ Em chào thầy” của các em vẫn như
ngày nào, ấm áp, thân thiết, trân trọng. Mình nghĩ, dẫu giá trị đạo đức của
thời này đang đi dần vào sự hỗn mang, phi lý, lộn sòng giữa tốt và xấu, mình
vẫn phải cố gắng giữ, có thể “tài” chưa giỏi, nhưng “ tâm” phải sạch để nghe
thấy tiếng: “ em chào thầy” không có điều gì phải xấu hổ, ân hận.
Nói như vậy nhưng để thực hiện được,
không dễ !
Đến thăm Lê Thiếu Nhơn, gặp thằng em
làm báo, làm thơ đầy bản lĩnh, có tài, có nhân cách mình vui, còn vui hơn ở đây
mình gặp nhà thơ Thanh Tùng với bài thơ “ Thời hoa đỏ” nổi tiếng, sau thành lời
trong bài hát cùng tên của nhạc sỹ Đình Bảng mà gần như thế hệ của mình, ai
cũng thuộc. Với Lê Thiếu Nhơn quen biết từ lâu, nói chuyện nhiều, nên chỉ cần
nghe tiếng cười đã biết nhau suy nghĩ của nhau nhưng riêng với nhà thơ Thanh
Tùng, mình nhìn anh, mới gặp thôi, sao mà thương đến lạ. Cảm giác này có khi bị
ảnh hưởng do những lời thơ cháy ruột của anh viết, viết cho anh, viết cho cả
bọn mình. “… Dưới màu hoa đỏ cháy khát khao/ bước lặng im trên đường vắng năm
nao /Chỉ có tiếng ve sôi ồn ào/Mà chẳng cho lòng mình yên chút nào…”Nhà thơ
dáng nghèo, nói từ tốn, nhìn thấy lành và thiện. Những người như thế này thường
khổ. Buổi chiều, mình cùng Lê Thiếu Nhơn, nhà thơ Thanh Tùng vào một quán hình
như mang tên Phố Hội trên đường Nguyễn Đình Chiểu thì phải để ăn cơm và có cớ
hàn huyên. Anh Thanh Tùng ăn ít, anh muốn dành thời gian nói chuyện với mấy đứa
em. Mình thấm thía lời anh nói: “ …Viết gì thì viết, nhưng phải viết thật, như
tình yêu ấy! Yêu thật, không giả dối. Có xa chỉ nhớ và thương thôi, để dẫu có
chia tay cũng không bao giờ mình trách mình hay trách người yêu. Viết văn, làm
thơ phải như vậy. Cứ chân thành ai cũng thương…”. Cuộc đời của nhà thơ Thanh
Tùng mang nhiều hương vị mặn của biển, nghiên ngả của gió bão, lúc mờ mịt của
bụi đường mà một thời Hải Phòng, nơi nhà thơ đã sống, thấm vào. Bây giờ nhà thơ
ngồi đây, bình lặng như một gốc cây già gan góc, xù sì chấp nhận mọi gió bão,
khô hạn, lũ lụt… cố tích nhựa, phi đời.
Cũng ở chỗ làm việc của nhà thơ Lê
Thiếu Nhơn, nỗi mừng nhân đôi khi mình gặp nhà văn Nguyễn Khoa Đăng. Mình đã
đọc một số truyện ngắn của nhà văn, biết nhà văn viết cuốn tiểu thuyết “ Nước
Mắt Một Thời” đang gây xôn xao trong dư luận bạn đọc. Nay trực tiếp gặp nhà
văn, mừng hơn, nhà văn tặng cho mình cuốn tiểu thuyết “ Nước Mắt Một Thời”. Cầm
cuốn tiểu thuyết trên tay mình đã háo hức, tìm mọi cách đọc ngay. Trước đây,
mình viết cuốn tiểu thuyết “ Một Phần Đời Trong Chiến Tranh”, có đề cập đến
giai đoạn cải cách ruộng đất, nhưng tất cả những chi tiết đó, mình chỉ nghe
lại, nên tả chưa đến tận cùng của đáy nước mắt. Đọc cuốn tiểu thuyết: “ Nước
Mắt Một Thời” của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng, có lẽ do nhà văn trực tiếp chứng
kiến, một bi kịch gia đình, một bi kịch tình yêu phơi ra như những dòng máu
chảy thành vệt hiện rõ trên tường. Một thời khủng khiếp, con người đày đọa con
người, còn hơn con người đày đọa súc vật. Thương cho nhân vật “tôi” trong tiểu
thuyết, thương cho cả nhân vật Én, yêu đến như thế, đẹp như thế mà không thể
đến được với nhau. Yêu càng tha thiết, càng khao khát lại càng xa nhau. Một
kiếp bị người ta đọa đầy cũng là một kiếp chung thủy đợi nhau. Gần ba trăm
trang tiểu thuyết “ Nước Mắt Một Thời”, có thể nói, đây là ý nghĩ của riêng
mình, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã chỉ rõ bản chất của công cuộc “ cải cách
ruông đất” là gì ? Hãy đọc kỹ những trang tác giả tả hoạt động của Đội cải cách
ruộng đất, hay chân dung của Đội Khoảnh, Kền…Những màn tra tấn bắt nhận tội,
những tội hoàn toàn bịa đặt để chính những người tố “ điêu “ ấy cũng thấy xấu
hổ, ân hận mà không làm sao thanh minh được, để đến tối, lần mò đến nhà người
bị nạn giập đầu xuống xin lỗi.
Bản chất của một cuộc Cách mạng nông
dân hiện rõ khi có thành quả. Nó sẽ phản động, tàn ác và đem lại hậu quả xấu
khôn lường, không những cho từng gia đình mà cả dân tộc. Với sự nhân văn, cao
thượng, trong đoạn kết của cuốn tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng muốn kết
thúc câu chuyện này có hậu. Nhưng mình vẫn nghĩ, di hại của cái gọi là “ cải
cách ruộng đất”, đến nay vẫn còn, chỉ có điều nó diễn ra dưới hình thức tinh vi
hơn, tàn độc hơn, phi nhân bản hơn, hèn hạ hơn vì tư tưởng nông dân, nếp nghĩ
nông dân vẫn đang ngự trị cơ mà!
Vào Sài Gòn, nhịp điệu cuộc sống lúc
nào cũng vội, cũng gấp gáp, mình biết thế! Nên tranh thủ đợi Hà Tùng Sơn đến
đón, mình đứng trước cổng của cơ quan Lê Thiếu Nhơn đọc gấp cuốn tiểu thuyết mà
nhà văn Nguyễn Khoa Đăng vừa tặng. Sơn đến đón, thấy vậy cười: “ Nhà văn các
ông, tôi nghe nói, ít đọc sách của nhau. Nhìn ông thế này, tôi lại nghĩ khác…”.
Lời nhận xét của Sơn không sai, nhưng tùy người. Riêng với mình, sách của các
nhà văn tặng, cố đọc. Đọc để học thêm được điều gì, hay điều nấy. Mình đang
nghĩ, đọc xong cuốn tiểu thuyết này sẽ viết một bài nhận xét. Thực tế đây là
cuốn tiểu thuyết đáng đọc.
Buổi trưa ở Sài Gòn trong một quán
vắng, mình với Hà Tùng Sơn nói chuyện nhiều. Nói gì thì nói, gốc của mình vẫn
là anh thầy giáo, dẫu có bỏ nghề hơn hai mươi năm nay rồi. Mỗi khi đến ngày “
Hiến chương các nhà giáo” 20 tháng 11, nghĩ lại, lòng vẫn thấy rưng rưng. Không
có những năm tháng làm “ thầy”, không có những năm tháng “ thầy” ra “ thầy”, “
trò” ra “ trò” mình không thể có ngày hôm nay và không thể có nguyên vẹn tình
thầy trò như ngày hôm nay. Hà Tùng Sơn hơn mình, đã có lúc chuyển ngành, nên
một quan chức, nhưng cương quyết không bỏ nghề, vào Sài Gòn vẫn quyết tâm trở
lại với giáo án, giảng đường, vẫn đau đáu một ước nguyện làm thế nào “ thầy” ra
“ thầy”, “ trò” ra “trò” của một trường đại học lớn. Nhưng, bối cảnh bây giờ,
xã hội đang sống, một thực tế “ oi khói đen kịt” ai cũng chứng kiến. Nói đến
giáo dục chỉ có tiếng thở dài đến não lòng, liệu quyết tâm của ông bạn vàng có
trở thành hiện thực không ? hay chỉ là một cốc nước trong đổ xuống một ao
bùn!!! Nói chuyện giáo dục giữa trưa trong một quán vắng, thưa người, món ăn
ngon thành ra nặng nề, không hợp, mình và Sơn quay sang nói chuyện gia đình,
con cái. Thế là thấy nhẹ người!
Trưa thứ ba, đang nghĩ cách làm sao
tránh được cuộc nhậu với một ông doanh nghiệp có làm ăn với vợ chồng mình, thì
được điện thoại của Nguyễn Quang Lập: “ Định hẹn với ông, chiều đến, nhưng tám
giờ tối nay ông “ bay” ra Đà Nẵng, thời gian gấp rút quá. Trưa nay đến quán
Ziều Đỏ đi, có thời gian nói chuyện nhiều. Anh Trung Trung Đỉnh, anh Nguyễn
Trung Dân và Nguyễn Nhật Ánh cũng đến…”. Thế là có cớ để khước từ cuộc nhậu với
ông doanh nghiệp nhiệt tình, hẹn khi khác. Trưa đấy mình đến quán Ziều Đỏ. Vừa
đến cũng là lúc gặp nhà văn Nguyễn Quang lập từ trên tắcxi bước xuống, chưa kịp
chào hỏi nhau thì một chiếc xe du lịch màu đỏ bốn chỗ ngồi xịch tới. Nhà báo
Nguyễn Trung Dân trực tiếp cầm lái, đưa nhà văn Trung Trung Đỉnh đến gặp mấy
thằng viết văn đàn em.
Mình cùng mọi người lên gác hai, ngồi
chưa ấm chỗ thì Nguyễn Nhật Ánh, trên nét mặt mồ hôi đổ giọt không kịp lau cũng
vừa đến. Đi cùng với Ánh là một em sinh viên khoa báo chí, dáng nhanh nhẹn, nét
mặt vui. Hai thầy trò ngồi chung bàn, câu chuyện vì thế thêm ồn ã. Qua câu
chuyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, mình mới biết thêm một chi tiết, vì Nguyễn
Quang Lập không nói. Trong hội sách vừa tổ chức, lẽ ra nhà văn Nguyễn Quang
Lập, cũng giống như nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đến tại hội chợ sách ký tặng vào
tác phẩm của mình viết, nếu như độc giả mua có yêu cầu. Nhưng có lệnh miệng,
không biết từ đâu “ ban” xuống. Yêu cầu nhà văn Nguyễn Quang Lập không được đến
hội chợ sách!!! Một cái lệnh “ cấm” hết sức lạ lùng. Nhưng thôi, nếu nói đến
chuyện “ lạ lùng” ở nước ta, thì kể cả ngày không hết. Với lại, những tác phẩm
của nhà văn Nguyễn Quang Lập, đâu có cần bán ở hội chợ, bán chỗ nào chẳng có
người mua. Có kẻ “ghét” nhà văn viết trên blog, nói cạnh, nói khóe, cũng thừa
nhận đã phải mua tác phẩm của nhà văn để đọc, mà đọc“ thích thú”. Rồi như chứng
minh, nếu là tác phẩm hay, đáng đọc, chỗ nào cũng người đón nhận, một em tiếp
viên nhà hàng Ziều Đỏ ( nơi trưng bày sách của nhà văn ) đưa hai quyển sách “
Ký ức vụn” của nhà văn Nguyễn Quang Lập mà hai độc giả vừa mua đến để cho nhà
văn ký tặng. Nhà văn Nguyễn Quang Lập ký rất trang trọng và cho rằng chuyện
“cấm ”không cho nhà văn đến hội chợ sách ký tặng tác phẩm của mình cũng là một
chuyện hết sức… trang trọng, không phải nhà văn nào cũng được như thế!
Mấy nhà văn được ngồi với nhau, rượu
vào, lại rượu ngon, tất yếu lời ra, ra vô tội vạ. Nhà báo Nguyễn Trung Dân mang
ra một chai rượu ngoại “ khủng”, mình không uống rượu nhiều, nên không biết
tên, chỉ có một thoáng vơi gần nửa. Giữa trưa, quán Ziều Đỏ phải phục vụ cơm
văn phòng nên đồ nhậu mang lên chậm, chỉ có rượu “ chay” nên phải uống. Uống
rồi, phải say. Say thì phải nói. Nói chuyện trên giời, dưới biển. Nguyễn Nhật
Ánh nhận xét, trong những tản văn hay mà nhà văn Nguyễn Quang Lập viết, có bài
“ Niệu liệu pháp” là hay nhất. Nhà văn Nguyễn Quang Lập cũng gật đầu công nhận
vì có một thời ai nói gì cũng nghe, những điều vô lý mà cứ tin, tin một cách
thành thực. Huống hồ là “ cái nước” của chính mình thải ra, chẳng lẽ mình lại
hại mình à! Bây giờ mới phát hiện ra rằng, không ai hại mình cả, mà có hại may
lắm chỉ vài lần. Còn chính mình đi lừa mình, hại mình thì lúc nào cũng có. Đề
phòng đấy mà vẫn cứ bị lừa. Nguyễn Nhật Ánh hỏi tất cả mọi người trong bàn “
Uống chưa?” . người gật đầu: “ Uống rồi!”, kẻ thì bảo “ Tôi không uống, nhưng
bố tôi uống!”, ngừơi khác thừa nhận: “ Do uống nhiều bia quá, đến lúc uống
nước… của mình, khai toàn mùi bia, nên tôi sợ!”. Cười đau cả ruột!
Cô bé đi cùng với nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh hóa ra là đồng hương với nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhưng có thêm một chi
tiết cảm động, cô bé chính là cháu nội của nhạc sỹ Nguyên Nhung, tác giả những
bài hát vang mãi một thời: “ Chiếc đàn môi”, “Bài ca bên cánh võng”… Những bài
hát của nhạc sỹ Nguyên Nhung, như nhà văn Nguyễn Quang Lập đánh giá là “ sang trọng”.
Bài hát “ Bài ca bên cánh võng” từng theo mình suốt dãy Trường Sơn năm 1972,
khi dừng chân bên con suối, mắc võng đung đưa: “ Dừng chân bên suối võng đưa.
Rừng ru ta thân yêu như quê nhà. Như con thuyền trên bến. Đợi rẽ sóng trùng
khơi…”. Bọn mình hát lại cho cô bé nghe bài hát đó, ánh mắt cô bé rung rưng,
cảm động, chắc đang nhớ về ông nội của mình.
Chuyện không ra đầu, ra đũa cứ thế cho
đến hết buổi chiều…
Cũng còn may ra sân bay kịp!
Tạm biệt nhé! Một lần lãng đãng… Sài Gòn.
TKT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới