Tác giả: Nguyễn Trung Ngọc
NTN: Có thể đây chỉ là những chuyện rất riêng của tôi,
không liên quan gì đến ai…Nhưng là những chuyện thật, chuyện “trần trụi”, không
bơm, không tô vẽ gì thêm nên biết đâu bạn bè, người thân lại thích đọc bởi một
lí do nào đó. Vì thế tôi đăng lên trang cá nhân của mình như một lời tâm sự,
một khúc tâm tình của một Ông Đồ đã về làng.
Xin mượn mấy câu thơ của một Người Thầy đáng kính để dẫn nhập câu chuyện:
“Điều chắc chắn là con không hèn hạ
Lượm rác đời làm giá hư vinh
Mót ti tiện bơm lên thành nghĩa cả
Kìa trời xanh con thả cánh diều lên”
Xin mượn mấy câu thơ của một Người Thầy đáng kính để dẫn nhập câu chuyện:
“Điều chắc chắn là con không hèn hạ
Lượm rác đời làm giá hư vinh
Mót ti tiện bơm lên thành nghĩa cả
Kìa trời xanh con thả cánh diều lên”
1. Sự biến Cải cách
ruộng đất.
Những
người cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đánh đổ tầng lớp xã hội giàu có,
“có máu mặt” nhất lúc bấy giờ: Địa chủ. Đây là lực lượng đang nắm giữ TLSX và
cũng là của cải xã hội chủ yếu. Họ có sức mạnh lớn nhưng đã phải chịu thua
trước sự trỗi dậy của người nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tôi sinh
ra trong thời kì này, không biết gì về cải cách. Chỉ khi lớn lên mới được bố
tôi, chưa hết bàng hoàng sau sự kiện “long trời lở đất”, kể lại cho tôi bao
nhiêu chuyện của những năm kinh hoàng ấy, dù tôi mới chỉ là một đứa bé. Bố tôi
là đảng viên nhưng là con “cường hào” (Ông Nội tôi trước có làm Lí gì đấy tuy
đã mất từ lâu, khi Bố tôi chưa đầy 5 tuổi), không thuộc “thành phần cơ bản”,
nên chẳng có “vai vế” gì trong cải cách. Mẹ tôi kể, một lần cả xóm tập trung
đấu tố trên một lô đất trống đầu làng. Mấy “ông đội” và hệ thống “rễ, chuỗi” ít
hiểu biết làm mưa làm gió, hô hoán người nghèo hành lên hạ xuống lôi ra bằng được
những “tên bóc lột ghê tởm” của làng. Thấy “ghê sợ” quá (Chữ dùng của Bố tôi),
Bố tôi đứng dậy. Mẹ tôi ngồi bên cuống quýt giật áo Bố, nhưng không kịp nữa
rồi...Không nén nổi bức xúc, Bố tôi nói liền một mạch, cho rằng đội làm thế là
không công bằng, bà con đấu tố thế là oan cho nhiều người, chúng ta cần bình
tĩnh soi xét kĩ lưỡng, chờ ý kiến của trên, tránh sai lầm có thể mắc phải…
Ông đội phó chỉ đạo buổi đấu tố hôm đó
gần như nhảy ra khỏi bàn, chỉ thẳng vào Bố tôi: “Quốc dân đảng! Quốc dân đảng!
Phản động chính hiệu! Giám bênh vực địa chủ, phá hoại công cuộc cải cách của
toàn đảng, toàn dân. Trên đã quán triệt, phải đấu tranh triệt hết những phần tử
chống đảng, chống nhân dân”. Thế là bố tôi bị kết tội là “phần tử chống đối cải
cách” và được đưa đi với hai “rễ chuỗi” cốt cán của đội cải cách áp giải là 2
anh cố nông trong làng mà theo lời kể của mẹ, tôi cứ hình dung rất giống với
Chí Phèo, Binh Chức – nhân vật trong tác phẩm Nam Cao. Ông bị đưa lên huyện tạm
giam để “xem xét”. Nhưng chỉ một tuần sau thì Bố tôi được thả về. Có lẽ những
người đảng trên huyện cũng thừa thấy lòng trung thành đến mức tội nghiệp của
những người như ông.
Sau này, nhiều lần tôi hỏi lại Bố:
“Nhưng hồi đó Bố là Đảng viên cơ mà?”. Bố tôi chỉ lắc đầu: “Quả tình Bố cũng
không sao hiểu được sao lại có một thời kì loạn li như vậy nữa. Có lúc Bố đã
nghi ngờ có một lực lượng nào khác đang phá hoại Đảng”. Tôi cười thử Ông: “Thế
Bố không giận Đảng à?” Ông hơi buồn nhưng lời nói vẫn đầy đức tin: “Đảng không
sai đâu con! Chỉ là mấy người làm bậy thôi mà!” Lớp Đảng viên như Bố tôi, vào
Đảng trong thời kì giành chính quyền, bắt đầu “Chín năm kháng chiến”, lòng tin
vào Đảng gần như không thể có gì lay chuyển.
Làng Thái Yên quê tôi nằm trên dải
đồng đất chiêm trũng cuối huyện Đức Thọ tiếp giáp với Can Lộc. Nhìn về phía
Đông năm cây số là dãy Hồng Lĩnh xanh cao xen đôi vùng núi trọc với những tảng
đá lô nhô như có đàn voi đang nằm nghiêng bên sườn đồi cỏ. Lớn lên thấy núi
Hồng thật thơ mộng và hiền hoà nhưng trong kí ức tuổi thơ tôi, ngàn Hống là nơi
ma thiêng nước độc rất đáng sợ: Cửa Trẹm với muông thú đầy đàn. Sáng sớm khi
mặt trời từ sau biển Đông nhô lên chiếu những tia nắng kì ảo xuyên qua kẻ lá,
thường có những đàn khỉ đông cả trăm con đu cành hú hét. Chúng biết trêu cả các
bà các chị lên núi sớm hái củi; Bãi Vọt xưa là cả một vùng đất bạc màu cằn cỗi
chỉ có cây Vọt mọc nổi trên vùng đất hoang thành bãi. Nước trong động Khe Máng
chảy ra có màu trong đen rất sợ; Sườn bên đông là đất Công Khánh trồng được sắn
khoai, thời cải cách chính quyền dùng làm nơi cải tạo – lưu đày nhiều địa chủ.
Bố tôi kể lại rằng: Làng tôi có một Địa chủ cỡ lớn cũng
bị giam giữ nơi này. Đó là Ông quan Hàn Nguyễn Minh Châu. Dân làng quen gọi là
Ông Hàn Châu và nhắc tới Ông như một người đặc biệt, đáng nể sợ. Tôi còn nhớ
rất rõ nhiều câu chuyện Bố tôi kể về Ông Hàn này (Vì sao gọi là “Hàn” thì tôi
cũng mơ hồ, hình như ông được triều đình phong sắc Hàn lâm…gì gì đấy). Từ thời
nảo thời nào, Cụ Hàn đã bỏ tiền riêng của mình làm được nhiều việc lớn cho làng
mà mãi tận ngày nay nhà nước ta mới phát động các vùng nông thôn làm được. Mấy
chữ ĐIỆN – ĐƯỜNG – TRƯỜNG – TRẠM Cụ làm chỉ thiếu cái chữ đầu (Điện) vì thời
bấy giờ là chưa thể còn thì Cụ đã mua đá từ đâu về lát toàn bộ đường đi lối lại
trong làng làm cho “giao thông nông thôn” làng tôi hơn hẳn cả vùng. Trong khi
những làng cạnh bên vào mùa mưa phải xắn quần trượt trên những lối đi chung với
trâu bò bị xéo nát thì dân Thái Yên ung dung gõ guốc trên nền đường lát đá tảng
được nước mưa dội rửa cho sạch bóng. Ai từng biết làng tôi thời kì này hẳn
không quên những “con đường Thái Yên” vừa nói. Các tuyến đường đó mãi tận những
năm 70 của thế kỉ trước, khi ở nông thôn bắt đầu biết dùng xe đạp nhiều lên thì
người ta mới thay dần bằng đường rải sỏi biên hoà cho thuận tiện đi lại.
Không biết Cụ Hàn Châu có được ai lãnh đạo không mà
chuyện học hành của con trẻ trong làng cũng được Cụ chăm lo đến lạ: Hết chuyện
làm đường Ông lại bỏ tiền xây cất một ngôi trường cả huyện cũng khó đâu sánh
được. Trường xây kiểu nhà Tây: Mái lợp ngói Tây; Tường dày cả 2 hai gang tay;
Cửa hai lớp trong kính ngoài chớp; Hành lang phía trước rộng cả 4 – 5 mét…Tôi
bắt đầu đi học thì đây là ngôi trường đầu tiên. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ thế hệ
như tôi sinh ra ở cái làng cổ kính quê tôi phải nói thế này mới công bằng: Ơn
Cụ Hàn! Những bước đi ban đầu của chúng con nhờ nhiều vào những đồng tiền hào
phóng của Cụ! Thật thế, suốt cả bốn năm cấp một tôi tung tăng đến lớp với khăn
quàng đỏ trên vai dưới chế độ mới là tung tăng dưới mái trường do chính Cụ Hàn
Châu tự bỏ tiền xây cất để tặng làng mà thật ra cho tận đến nay, sau hơn nửa
thế kỉ, học sinh tiểu học nhiều nơi chưa chắc đã có. Bốn năm đầu đời đi học tại
đây, đã bao lần tôi được hưởng niềm sung sướng của đứa trẻ con đứng dưới cờ
nhận sự tuyên dương của nhà trường vì thành tích học tập mà ấn tượng nhất là
năm cuối cấp được công nhận học sinh giỏi toàn tỉnh cùng một bạn trong lớp là
Nguyễn Minh Đường, cháu chắt trong dòng họ Cụ Hàn Nguyễn Minh Châu. Đường sau
này lớn lên cùng cả nhà ra Hà Nội, nghe đâu về sau trở thành giám đốc, tổng
giám đốc trong một ngành gì đó. Chúng tôi chơi thân với nhau ở tuổi tiểu học
nhưng lớn lên Đường ra Hà Nội còn tôi cũng rời quê nên không còn biết nhiều về
nhau nữa. Chơi với Đường tôi sướng nhất là bố hắn dạy cấp 3, nhà có một tủ sách
với đầy những cuốn mà tôi thấy là như mèo thấy mỡ. Đó là Tây Du kí, Tam quốc
diễn nghĩa, Thuỷ hử, Những người khốn khổ…Đường mở trộm tủ bố cho tôi mượn đọc
dần cả kho sách nhà nó. Những sách thành bộ như Tam quốc diễn nghĩa hắn chỉ cho
tôi mượn từng tập, mỗi tập một vài hôm, đọc xong mới được mượn tiếp với lời dặn
đi dặn lại: Không được để quăn mép một tờ nào, bố tao mà biết ông giết…Nhiều
bữa bận đi học, bận việc mẹ giao, tôi phải vừa thổi cơm vừa tranh thủ đọc bên
bếp lửa cho kịp hạn trả lại Đường. Khổ nhất là có lần Bố tôi thấy con say sưa
với sách mới hỏi : “Sách gì vậy con?” Tôi trả lời nhanh: “Sách Tam quốc bố ạ!”
Bố tôi lại gần: “Tam quốc nào, Tam quốc diễn nghĩa ấy à?” Tôi vẫn không rời mắt
khỏi sách vừa “dạ” khá dõng dạc vì tưởng được bố khen. Ai dè ông bước lại cầm
lấy sách trong tay tôi: “Ai cho con đọc sách này! Sử nước nhà chưa biết, lại lo
đi đọc sử Tàu. Thôi đi, con hãy đọc hết sách nước mình đã rồi đến những thứ
này!” Và ông cấm tôi thật…Thế là tôi phải đối phó bằng cách trốn lên gác rơm chuồng
trâu nhà bà Huân bên cạnh vào những giờ có thể để ngốn cho hết những bộ sách bị
cấm kỵ đang dở nghiện này. Phải nói cái lứa học trò bọn tôi thuở đó ham đọc
sách vô cùng. Gần nhà tôi hồi đó còn có 2 thằng bạn là Nguyễn Đăng Phát và Trần
Mạnh Hoan cũng say sách mê mệt. Chúng nó mà thấy tôi mượn được sách là thế nào
cũng đòi đọc chung. Có hôm ba cái đầu cùng chụm lại đến tận khi trời tối mịt để
cùng ngấu nghiến cho xong một hồi trong “Thuỷ hử”: “Quận Hoành Hải Sài Tiến
tiếp khách / Núi Cảnh dương Võ Tòng đánh hổ”. Nếu nói “văn hoá đọc” rất cần thì
có thể hồi đó lũ chúng tôi cũng đã góp nhặt được khá nhiều. Không như các cháu
tôi bây giờ, nó không đọc sách nữa. Tuy nhiên, chơi game, chơi điện thoại thì
mới 5 tuổi chúng đã là thầy của ông. Thậm chí còn sớm hơn thế nữa: Cháu nội tôi
4 tuổi chưa biết chữ mà không hiểu sao biết tự tải về những bản nhạc nó thích
rồi tự đứng uốn mình nhảy theo nhịp điệu trong chiếc điện thoại phát ra. Mà nó
làm nhanh chóng, chính xác như bộ đội Cụ Hồ xưa thực hiện điều lệnh vậy!
Cái xóm đầu làng của tôi là mảnh đất
phát về sự học văn hay sao ấy: Cả tôi và hai thằng bạn cùng xóm Phát, Hoan sau
này cùng vào lớp Năng khiếu văn của tỉnh Hà Tĩnh rồi hai đứa kia cùng đi học
trường Đại học tổng hợp Lô-mô-nô-xôp ở Liên Xô, còn tôi ở lại với “Ngọn cờ hồng
trên quê hương Xô Viết”(*). Phát học xong về làm tại TTXVN ở Hà Nội, Hoan theo
ngành luật trong quân đội, mới ngoài 30, đang là thượng tá, trưởng ban điều tra
của Bộ tư lệnh QK4 thì đột ngột qua đời. Nhưng, cả với 2 thằng bạn này, tôi cũng
chỉ gần gũi, học hành với chúng đến đầu năm cấp 3 (THPT) mà thôi. Năm 1968, chiến tranh quá ác liệt. Bố
tôi sợ mất con nên đã chuyển tôi khỏi trường cấp 3 Trần Phú, nơi có "lớp
đặc biệt văn" của tỉnh lúc bấy giờ để lên học với một trường cấp 3 Đức Thọ
nơi sơ tán.
Trở lại chuyện Cụ Hàn Châu. Sau những gì Cụ để lại cho
con em trong làng về việc học hành, túi tiền của Cụ còn được dốc ra xây tiếp
một Nhà thương rộng rãi, chỉnh tề nhất để chữa bệnh cho dân làng. Khi tôi lớn
lên đã thấy toà Nhà thương này đứng sừng sững trên một khu đất rộng cuối làng
từ bao giờ theo kiểu kiến trúc cũng mang hơi hướng Pháp với những hành lang
rộng có vòm cuốn ở trên. Góc trước Nhà thương là một cái giếng to, sâu được đào
để lấy nước phục vụ cho bệnh nhân và y sĩ. Mãi tận sau này giếng vẫn tồn tại và
dân làng vẫn ra đây lấy nước vì mọi người nói rằng nước giếng Nhà thương Cụ Hàn
Châu rất ngọt. Sau này, thời chính quyền nhân dân, Nhà thương này biến thành
khu trạm xá của xã, chung cho hai làng Thái Yên và Thanh Lạng. Nhưng, cho đến
hôm nay, khi nói về nơi này dân làng vẫn quen gọi Nhà thương Cụ Hàn hơn là Trạm
xá xã.
Còn một đóng góp khác của Cụ Hàn Châu
cho làng nữa: Từ thời xa xưa ấy Cụ đã cho làm một “đường dẫn thuỷ” để đưa nước
về tận khu đồng cao, khắc phục việc thiếu nước cho cả một cánh đồng thường
xuyên bị hạn hán không trồng trọt được. Ngày nay công trình thuỷ lợi này vẫn
còn vết tích. Những người hiểu biết trong vùng ai cũng gật gù bái phục tầm nhìn
của ông địa chủ Thái Yên này.
Như vậy, qua bao thăng trầm, dấu tích
để lại của Địa chủ Nguyễn Minh Châu với làng Thái Yên vẫn còn ba công trình quý
giá : Trường Mầm non Thái Yên được tôn tạo từ ngôi trường cũ; Trạm xá xã Thái
Yên xây dựng lại trên cơ sở Nhà thương cũ do Ông Hàn Châu kiến thiết và mương
dẫn nước nhằm đưa nước về đồng cao, dân
làng gọi là “Thuỷ quan” (Quan Hàn Châu). Chỉ có Đường làng là đã bê tông hoá
cho phù hợp với phương tiện giao thông mới nên không còn dấu vết xưa.
Có điều này cũng cần được nói thêm:
Những công trình để lại cho đời ấy Cụ Hàn không hề yêu cầu phải được mang tên
Cụ giống với nhiều người trong thời đại mới chúng ta. Chỉ là các thế hệ người
làng biết công đức của Cụ Hàn nên truyền cho nhau biết đấy là đường Cụ làm, đấy
là trường Cụ xây, đấy là Nhà thương Cụ đã kiến thiết hay đấy là mương nước Cụ đã cho đào!
Còn nhiều chuyện về địa chủ Nguyễn
Minh Châu người Thái Yên vẫn truyền kể lại sau này. Ví như ông là người chống
mê tín dị đoan rất kịch liệt. Một năm nọ, làng tổ chức rước kiệu, đưa các vị
thần ra khỏi đền “vi hành” một vòng quanh làng. Lễ xong, thần ứng nghiệm nhập
vào một trung niên hay cầu cúng trong làng. Anh này nhảy lên kiệu, ngồi lắc lư,
uốn éo và chỉ tay ra lệnh cho đám người được bố trí làm phu kiệu bắt đầu một
hành trình hết sức kì lạ. Họ không đi trên đường với những bước đi bình thường,
vững chắc như vốn có mà khi thì chạy ào xuống ruộng lóp ngóp khiêng kiệu giữa
vũng nước, khi lại leo bừa lên những gò đống cạnh đường đầy những cây cọc, đất
đá ngổn ngang khiến cho nhiều bàn chân trầy da toé máu. Tóm lại, dòng người
rước kiệu đông như kiến cứ nhốn nháo, nghiêng ngả di chuyển từ xóm dưới đến
làng trên trong tiếng kèn trống vang động cả một vùng, theo sự chỉ dẫn của
“thần” đang ngồi chễm chệ trên kiệu. Đám đông phấn khích bám theo ngày càng
đông. Những bộ mặt vừa hãnh diện vì được bước đi trong đám rước “thần”, vừa tỏ
ra rất lạ lùng vì đường đi của thần tiên không giống với người trần: nơi nào
thần cũng có thể đi, dù là băng qua mương nước hay giẫm lên đống gạch đá, mảnh
chai…máu chảy ròng ròng. Giữa khi đang
là đỉnh điểm của sự “lên đồng”, bỗng Cụ Hàn xuất hiện với cái gậy ba-toong quen
thuộc trên tay. Cụ đi nhanh lên phía trước đoàn người, đến chỗ tốp người khiêng
kiệu đang bước những bước xiêu vẹo kiểu quỷ thần. Chặn đoàn rước kiệu lại, Cụ
cầm gậy chỉ thẳng lên vị thần (ông đồng) đang ngồi trên kiệu hét to: “Xin thần
nghe tôi nói đây! Đã là thần linh thì phải chỉnh tề, đứng đắn, đi đứng có lối
có đường. Thần gì lại cứ ngả nghiêng, uốn éo như con đĩ! Thần có tử tế thì dân
làng rước trở lại đền, còn như thần không nghe lời tôi thì xuống mà tự đi lấy.”
Rồi Cụ huơ gậy mấy vòng chỉ vào đám phu kiệu: “Còn chúng mày! Liệu hồn đi đứng
cho nghiêm chỉnh, thằng nào còn nhún nhảy, vật vã không đi đúng đường, đúng lối
tao đập gãy chân ngay!” Sau những lời đanh thép của Cụ Hàn, thần (ông đồng)
bỗng ngồi lại ngay ngắn trên kiệu không dám ra oai chỉ trỏ bừa bãi nữa. Còn đám
người khiêng kiệu thì cứ thẳng lưng mà khiêng, thẳng đường mà đi vì ai cũng sợ
ăn gậy của Cụ Hàn. Dân làng nhiều người có sợ “thần” thật nhưng còn sợ Quan Hàn
hơn. Đối tượng như bố tôi thì được một bữa cười khoái trá. Đám rước kiệu của
làng hôm đó, sau “sự kiện” Ông Hàn Châu can thiệp, rẽ một bước ngoặt căn bản.
Còn chuyện đúng sai đến nay vẫn còn khối người chưa chịu.
Nghe câu chuyện này của làng mình tôi
cứ nghĩ đến chuyện Tây Môn Báo trong Sử kí Tư Mã Thiên.
Thời
Nguỵ Văn hầu, Tây Môn Báo làm lệnh doãn huyện Nghiệp. Báo họp các bô lão, hỏi
xem dân khổ vì nỗi gì. Các bô lão nói: Khổ vì chuyện Hà bá cưới vợ. Quan tam
lão huyện Nghiệp và thầy Đô lại hằng năm thu thuế của dân có cả mấy trăm vạn,
rồi bỏ ra hai, ba mươi vạn cưới vợ cho Hà Bá, còn bao nhiêu chia nhau bỏ túi
với bọn thầy cúng, cô đồng. Bọn cô đồng đi lùng con gái các nhà nghèo hèn, thấy
cô nào có nhan sắc thì bảo đáng mặt làm vợ Hà Bá, rồi cưới liền tay. Cô gái
được tắm gội sạch sẽ, được may quần áo bằng thứ the lụa mỏng và được để ở riêng
ra một nơi ăn chay giữ giới. Rồi họ để “cô dâu” ngồi lên giường mà thả xuống
Hoàng Hà. Chiếc giường chìm dần, mang theo cả cô gái xuống với Hà Bá.
Những nhà có con gái đẹp sợ bọn thầy cúng, cô đồng chọn con
mình, phải đem con đi trốn. Trong thành ngày một thưa dân và dân tình ngày thêm
nghèo khổ. Cái tục cưới vợ cho Hà Bá đó đã có từ lâu lắm. Dân gian có câu rằng:
“Nếu không cưới vợ cho Hà Bá, thì nước sông Hà sẽ dâng lên, làm chết hết dân”.
Tây Môn Báo nghe vậy liền bảo: “Khi nào cưới vợ cho Hà Bá, xin tam lão, thầy cúng,
cô đồng và các bô lão hễ đưa cô gái ra bờ sông Hà, thì nhớ báo cho tôi biết,
tôi cũng đi đưa”.
Đúng ngày đã định, Tây Môn Báo đến bờ sông Hà, hội họp với
mọi người. Các tam lão, lại thuộc, hào trưởng, bô lão đều đến đông đủ, cùng với
dân chúng đến xem có tới hai, ba ngàn người. Cô đồng là mụ gái già đã bảy mươi
tuổi. Bọn đệ tử gái tuỳ tòng có đến mươi người. Tây Môn Báo truyền: “Gọi vợ Hà
Bá lại đây xem xấu đẹp thế nào”. Tức thì cô gái trong màn bước ra, tới trước
mặt quan lệnh doãn. Báo nhìn cô gái bảo rằng: “Cô này không đẹp, xin phiền cô
đồng cả xuống báo cho Hà Bá biết rằng còn phải tìm một cô đẹp hơn thay thế,
ngày mai sẽ nộp”. Lập tức ra lệnh cho đám lại tốt ôm cô đồng cả quăng ra giữa
sông. Một lát sau, Báo nói: “Sao cô đồng cả đi lâu vậy, các đệ tử gái xuống tìm
đi, mau lên!” Đám lại tốt lại ôm một cô đệ tử liệng ra giữa dòng. Một lát sau
Báo lại nói: “Cô đệ tử đi sao cũng lâu vậy? Cho một cô nữa đi tìm, mau lên!”.
Một cô đệ tử thứ hai được liệng tiếp xuống sông. Rồi Tây Môn Báo nói: “Cô đồng
cả và các đệ tử cô đều là đàn bà con gái không trình bày nổi câu chuyện. Xin
phiền tam lão xuống trình bày giúp. Lại liệng một tam lão xuống sông. Tây Môn
Báo quay mặt về phía sông, đứng đợi hồi lâu. Các bô lão lại thuộc và mọi người
đứng xem đều sợ khiếp vía. Tây Môn Báo quay lại bảo: “Cô đồng cả và viên tam
lão đều chẳng thấy về, làm thế nào bây giờ?” Và muốn sai một viên lại thuộc và
một vị hào trưởng xuống sông đi tìm. Bọn này dập đầu xin tha. Tây Môn Báo bảo:
“Thì đợi thêm chút nữa”. Một lát sau Báo nói: “Thầy thừa đứng lên! Xem cái điệu
này, Hà Bá lưu khách lâu quá, thôi cho bọn thầy về!”
Dân chúng và lại thuộc huyện Nghiệp đều sợ hết vía, từ đó
cạch không dám nói chuyện cưới vợ cho Hà Bá nữa.
Tây Môn Báo huy động dân chúng đào mười hai con kênh, dẫn
nước sông Hà vào ruộng, ruộng được tưới nước đầy đủ. Nhờ có công trình thuỷ lợi
ấy, nhà nào nhà ấy đều được no đủ. Mười hai con kênh cắt ngang đường ngự đạo.
Đến khi nhà Hán lên trị vì, quan trưởng lại cho là mười hai cái cầu trên mười
hai con kênh cắt ngang đường ngự đạo gần nhau quá, không tiện. Ông định rút bớt
một số cầu. Bô lão và dân chúng huyện Nghiệp không đồng ý, cho rằng đó là sự
nghiệp của ngài Tây Môn, mà sự nghiệp đáng làm gương mẫu của một bậc hiền giả
thì không nên sửa đổi. Rốt cuộc, quan trưởng phải nghe theo ý dân. Còn tiếng
tăm Tây Môn Báo, lệnh doãn huyện Nghiệp, lẫy lừng khắp thiên hạ, ân huệ thấm
nhuần đời sau…
(Tôi
đưa luôn câu chuyện về Tây Môn Báo trong sử kí Tư Mã Thiên hầu các bạn đọc cho
tiện)
Có lẽ ở đâu và thời nào cũng vậy, “Thương dân, dân lập đền thờ / Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương”. Cụ
Hàn Châu của làng Thái Yên quê tôi sau hơn mấy chục năm chìm vào quên lãng thì
sau chiến tranh chống Mĩ, một cán bộ quân đội từng sống và biết khá nhiều về Cụ
là ông Nguyễn Đăng Đề, đã “chạy” tận Trung ương nhưng không phải là chạy chức,
chạy quyền mà là xin được minh oan cho địa chủ Hàn Châu và công nhận liệt sĩ
cho mười “liệt sĩ thật” nhưng do thất lạc hồ sơ nên có người hơn cả nửa thế kỉ
nay không được ai biết đến. Đảng uỷ và chính quyền địa phương trước ý kiến xác
đáng của anh Đề đã đồng ý vinh danh Cụ, đưa linh vị Cụ vào thờ ở Nhà Thánh
làng, tôn làm bậc Thánh của Thái Yên. Làng tôi có tục, có lẽ cũng khá đặc biệt,
là có một đền thờ của làng gọi là Nhà Thánh Thợ. Cứ ai trong làng nổi danh,
đóng góp cho làng xứng đáng, đáng bậc thánh hiền sẽ có một vị trí để thờ trong
Nhà Thánh này. Cách Nhà Thánh Thợ chừng hai trăm mét còn có một ngôi đền làng
khá to và một ngôi chùa tầm trung là chùa Vạn Phúc. Cả ba ngôi đền – chùa này
tạo nên một vùng đất thiêng mà bọn trẻ chúng tôi cứ nổi da gà mỗi lần đi qua
dưới lùm cây rậm rạp. Thời kì Hợp tác hoá, đền biến thành kho HTX, rồi sau đó
bị dỡ bỏ hai dãy nhà tả, hữu từ bao giờ không rõ. Tuổi thơ, dù sợ hãi, nhưng tôi
vẫn cùng lũ bạn “phá phách” khu này khá nhiều: Lúc thì trèo lên tận ngọn cây đa
cao lớn sau đền bắt tổ chim Cà cưỡng; khi leo lên gác chuông cổng Nhà Thánh để
được nhìn ra xa phía cánh đồng tiếp giáp với xã Đức Thuỷ; lại có lúc giữa trưa
mang chiếc nỏ với cả bó mũi tên, lục lọi từng lùm cây, tìm bắn mấy con cò hương
hay đậu trong bờ rậm rạp.
Vậy là, ở Nhà Thánh của làng, người đã có nhiều công đức
với dân – địa chủ Nguyễn Minh Châu, cuối cùng đã được thờ phụng một cách cung
kính, đàng hoàng dưới chế độ cộng hoà – dân chủ với sự góp công rất lớn của một
trung tá, chính uỷ về hưu. Anh Nguyễn Đăng Đề là cháu gọi bố tôi bằng cậu. Mẹ
anh và bố tôi là con cô con cậu. Hai người đồng thời là bạn thân của nhau dù
anh còn kém bố tôi hơn chục tuổi. Anh cũng là một đội viên thân tín của bố tôi
trong đội du kích của làng mà bố tôi là chỉ huy, thời kì chống Pháp. Năm 1947,
anh vào quân đội, trở thành một trong những người lính vệ quốc đầu tiên của
làng. Anh Đề không hề có quan hệ
họ hàng, bà con gì với Cụ Hàn Châu cả. Chỉ là thấy việc đáng làm thì anh làm.
Ngày làm lễ rước linh vị Cụ Hàn Nguyễn Minh Châu ra Nhà Thánh của làng, Ông
Nguyễn Minh Cần, có thời từng làm thông phán của Pháp, khóc mà nói với Anh Đề
rằng: "Không có anh, Bố tôi mãi mãi phải ngậm oan nơi chín suối".
Hiện anh Đề vẫn khoẻ mạnh, minh mẫn, ra Vinh sống với con, ở cách nhà tôi chỉ
chừng nửa cây số. Để viết lại những dòng này tôi đã phải gặp anh hỏi thêm nhiều
chi tiết. Anh là một nhân chứng rất đáng tin cậy.
Tôi có Nhấn mạnh việc Cụ Hàn Châu được minh oan và vinh
danh bởi trước đó tôi chưa nói rõ chuyện này: Nói là địa chủ lớn nhưng Cụ Hàn
chưa thuộc hàng địa chủ lớn nhất của làng tôi. Trong cải cách tuy Cụ không bị
xử tử hình nhưng bị đưa lên đày ở trên núi Hồng Lĩnh (Phần trên tôi đã đề cập
đến chi tiết này). Nếu Cụ là người làng khác có khi đã bị xử bắn mấy lần. Bởi
bấy giờ có qui định mỗi làng phải bình cho ra mấy địa chủ và theo tỉ lệ, cứ mấy
địa chủ thì có một người phải bắn. Nên có những làng nghèo, địa chủ của họ có
khi chưa bằng trung nông nơi khác. Cái sai lầm này trong cải cách ruộng đất
nhiều người đã rõ. Cụ Hàn Châu khi bị đày lên núi tuổi đã cao. Sức già không
chống chọi nổi với xứ ngàn Hống ma thiêng nước độc, Cụ chết trong cô đơn và đói
rét. Mãi một thời gian sau, con trai Cụ Hàn là ông Nguyễn Minh Cần phát hiện
xác Cụ đã thối rữa, mối đùn lên vùi lấp ở cái lỗ xí sau trại, mới gom lại và
xin được chôn cất cho bố mình trên núi Hồng Lĩnh. Nhiều kẻ ác miệng được trang
bị thêm tư tưởng thời cải cách còn xỉa xói: “Địa chủ bóc lột cho lắm, chết mất
thây trên núi!”
Tôi đã nói, làng tôi là một làng quê cổ kính. Ngoài Cụ
Hàn Châu điển hình cho lớp địa chủ có học, làng còn có nhiều gia đình giàu có
khác mà thời kì cải cách đã sụp đổ hoàn toàn.
Gần nhà tôi, ở ngay đầu làng có một vuông đất hẹp. Được
dựng lên trên đó là một hiệu cắt tóc bán di động. Chủ hiệu cắt tóc này là chú
H, một người Miền Nam tập kết. Thời bé, hàng ngày tôi vẫn bế em ra quanh quẩn
chơi ở đây. Nằm ở vị trí đầu làng nên chỗ này đông người qua lại rất vui. Đó là
chưa kể khách đến hiệu cắt tóc của Chú H có thể nói là hơn hẳn những chỗ khác.
Không hẳn vì chú cắt tóc đẹp mà là vì mọi người đến đây được nghe chú kể bao
nhiêu chuyện hấp dẫn về Miền Nam, về vùng đất xa tít bên kia sông Bến Hải với
vĩ tuyến mười bảy in đậm trong sử sách. Chú lại có giọng nói của người Quảng
Trị nghe là lạ nữa. Trên vách nứa được thưng quanh cái “hiệu làm đầu đời
cũ”này, chủ nhân của nó dùng vôi đề hai câu thơ mà câu trước và câu sau chẳng
ăn nhập gì với nhau như người ta vẫn thường thấy ở những nơi “dân trí” thấp
nhưng lại thích khoe chữ. Gần sáu mươi năm rồi mà tôi vẫn nhớ cả nét chữ viết
ngoằn nghoèo trên vách:
“Ở đây tai vách
mạch rừng
Quý khách hút
thuốc xin đừng bẻ phên”
Chú H tập kết ra Bắc, lúc đầu ở nhờ
trong nhà thằng Phát bạn tôi (Nguyễn Đăng Phát – thằng bạn vẫn hay giành đọc
Tam quốc, Thuỷ hử mà tôi đã nhắc đến ở phần trước). Bố Phát đi thoát li, nghe
đâu có thời làm chủ tịch huyện Bố Trạch mãi trong Quảng Bình. Chắc là “gia đình
cách mạng” nên nhà Phát được chọn làm nơi gửi thân của đồng bào Miền Nam tập
kết.
Nếu không có chuyện hàng tháng mẹ vẫn
cho tôi mấy xu ra hiệu chú H cắt tóc, tôi đã không biết được bí mật này: Người
chú khoẻ mạnh nhưng trên một bàn tay mất hẳn ngón trỏ. Một lần đi cắt tóc tôi
mới chú ý và phát hiện điều này. Hồi đó lũ trẻ chúng tôi đã bắt đầu có những
khái niệm như là “thương binh về làng”, “tập kết”…Tôi mới về hỏi bố: “ Cậu ơi!
Chú H là thương binh à?” Bố tôi hỏi: “Sao con hỏi vậy?”. Tôi trả lời: “Con thấy
chú cụt một ngón tay!” Bố tôi xuống giọng như sợ ai nghe thấy và lại gần tôi
hơn: “Năm cải cách, chính tại nơi chú cắt tóc bây giờ ấy, khi đó là một gốc đa
to đầu làng, đội cải cách dẫn địa chủ Nguyễn Trọng Tốc ra cánh đồng để hành
quyết. Trước việc giết người, nhiều nông dân từng sống với địa chủ cũng thấy
chùn tay. Chú H là thành phần “cốt cán”, là đội viên rất tích cực, đã trói ghì
ông Trọng Tốc lại. Ông “địa chủ loại một” này chống cự, kêu oan liền bị chú H
nhét dẻ vào miệng. Có lẽ là một phản xạ tự nhiên để chống lại kẻ đang cưỡng bức
mình, ông cắn đứt luôn ngón tay đang đẩy nùi dẻ rách vào miệng mình. Câu chuyện
là thế đấy, con!”
Tôi
phải nói vòng vo một chút về cái hiệu cắt tóc vì muốn phản ánh rõ hơn công cuộc
cải cách với những nhân vật của nó. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu sót rất nhiều: Sau
này nhân vật trong hiệu cắt tóc ấy đã sống với gia đình mẹ nuôi ra sao, “bỏ
quên” vợ con trong Nam thế nào…thôi thì chuyện ấy cũng đành “dằn lòng” thông
cảm được.
Địa chủ lớn nhất
làng tôi cũng chưa phải là những người đã kể ở trên. Hồi bé tôi thường bế em
đến nhà Bà ngoại. Đường đến nhà bà đi qua một chiếc cổng to hơn cả cổng làng.
Mở hai cánh cổng bằng gỗ ra thấy cả một cái ngõ rộng, sâu hun hút, hai bên xây
tường gạch, phía trên là những thanh sắt dài được uốn cong thành vòm cuốn nối
nhau chạy mãi vào tận sân nhà. Đến nay chiếc cổng vẫn còn, đúng từ xa cũng thấy
rõ giữa cái vòm cuốn chữ số 1941. Người khác thì không biết, còn tôi chẳng thấy
chút “thành kiến địa chủ” nào mà chỉ thấy ngưỡng mộ một gia đình Nhà Nho yêu
nước có tiếng khi về làng ngắm lại cái cổng này. Cả nhà có mấy anh em đều theo
nhau hoạt động chống Pháp, chống lại cường quyền để giải phóng đất nước.
Đi hết cái ngõ
dài, vượt qua khoảng sân gạch rộng là toà nhà hai tầng xây vào những năm đầu
thập kỉ bốn mươi của thế kỉ trước. Nhà Phương Đông lai Tây. Thời thơ ấu, với
tôi đây là toà nhà vào hàng hoành tráng nhất. Chủ nhân của toà nhà này là ông
Nguyễn Trọng Cầu, địa chủ, thầy thuốc Đông y rất uy tín và giàu có nhất làng. Ông Cầu có
người em trai (hay anh trai, tôi không thật rõ) là Nguyễn Trọng Thốc (Đi hoạt
động lấy tên là Nguyễn Tạo), tác giả cuốn “Chúng tôi vượt Ngục” và cuốn hồi kí
nổi tiếng "Sống để hoạt động". Ông Nguyễn Tạo từng bị giam ở Hoả Lò
và là một trong số bảy người tham gia "cuộc vượt ngục lừng danh năm
1932", trong đó có ông Nguyễn Lương Bằng. Một thời ông giữ chức bộ trưởng
Nông – Lâm thì phải. Ông Nguyễn Trọng Tám, em trai thứ ông Cầu cũng là
một cán bộ cách mạng lão thành của Thái Yên. Tôi có thằng bạn học hồi cấp hai
con nhà cố nông nên ngày cải cách nhà nó được chia một gian phía sau của toà
nhà to lớn ấy. Có lẽ đấy là một gian trong khu nhà bếp của ông Cầu. Đến nhà bạn
chơi, tôi được thoả thích đá cầu, chọi gụ trong khu sân gạch rộng rãi ngày ấy
nông dân có mơ cũng khó thấy.
Khi địa chủ Nguyễn Trọng Cầu được đưa vào danh sách tử
hình thì cả nhà ông đã đi đâu rất xa, không còn bóng dáng ở làng. Nhiều năm
sau, khi chuyện cải cách ruộng đất đã đi vào dĩ vãng thì người ta thấy ông Cầu
xuất hiện cả trên báo chí. Gia đình ông ra sống ở Hà Nội. Ông trở thành một
lương y thuộc hàng đầu trong cả nước. Nghe đồn rằng, chính ông là Bác sĩ Đông y
đã chăm sóc sức khoẻ Hồ Chủ Tịch trong những ngày tháng cuối đời của Bác. Chỉ
biết, khi ông mất báo chí lúc ấy đã đưa tin trang trọng.
Từ sau thời kì sửa sai, năm nào cũng thấy bà Cầu (vợ ông
Nguyễn Trọng Cầu) từ Hà Nội về quê. Giờ thì không phải về thu tô thuế gì nữa.
Cũng chẳng thấy ông bà đòi lại nhà cửa gì. Mấy gia đình cố nông được chia “của
thực” thấy vẫn ung dung sống trong toà nhà của ông bà đại địa chủ ấy. Bà Cầu về
quê chỉ vì một việc mà lũ trẻ chúng tôi rất mong đợi, đó là thu mua xác ve sầu
để làm thuốc Bắc. Vì thế bà thường về vào cuối hè, khi mấy đứa “làm kinh tế
nhạy bén” chúng tôi đã gom được cả một túi đầy xác ve để bán cho bà lấy mấy hào
mua kem của mấy chú bán rao mang tận từ Vinh về. Không biết có phải vì “hết
thời” nên bà Cầu đổi tính rồi không, chứ tôi thấy bà hiền khô, không “nanh ác”,
“thâm hiểm” như nhiều người lớn nói. Khuôn mặt bà nhìn phúc hậu và bà mua bán
với chúng tôi rất sòng phẳng, thỉnh thoảng còn thưởng thêm cho mấy xu. Năm nào
bà không về, bọn trẻ chúng tôi phần buồn vì “hàng” của mình bị ế, phần cũng
thấy nhớ bà.
Sau ông Cầu, làng tôi còn nhiều những địa chủ khác mà sự
“ác bá” của họ, hồi cải cách tôi mới sinh chưa biết gì, còn khi lớn lên chỉ
thấy con cháu họ nhìn chung đều giỏi giang và sống tử tế trong làng. Trong số
đó có một Người Thầy đáng kính của tôi. Thầy là Nguyễn Trọng Tính, cháu ông địa
chủ Năm Thái ở gần nhà Bà Ngoại tôi. Năm đầu lên cấp hai tôi học với Thầy. Lớp
học là một cái lán nằm chìm vào lòng đất, xung quanh được bao bọc bởi một luỹ
đất hầm chữ A để chống bom đạn trong những năm ác liệt của chiến tranh phá
hoại. Chỉ dạy cấp hai nhưng Thầy rất giỏi, nói thạo tiếng Pháp, chữ đẹp, văn
hay…Thời kì này người ta vẫn rất kì thị con nhà địa chủ nên tôi có cảm giác
đồng nghiệp có vẻ né tránh Thầy. Tôi thì chỉ thấy Thầy hiền hậu, thông minh nên
đi học chỉ mong đến giờ văn của Thầy. Nhớ có lần, năm ấy tôi học lớp năm, giờ
trả bài tập làm văn, Thầy hỏi trước lớp: “Em nào là Nguyễn Trung Ngọc?” Tôi
đứng dậy: “Dạ thưa thầy, em ạ!” Thầy lại hỏi: “Em con ai?” Tôi hơi ấp úng:
“Dạ…con…Cậu Thu ạ!” Mặt Thầy có vẻ rạng lên: “A…con anh Thu, Năm Thu đúng
không?” Thấy Thầy biết bố mình, tôi thoáng vui nhưng hổ thẹn đỏ mặt. Thầy chỉ
gật gật đầu rồi cho tôi ngồi xuống và lấy tập bài làm phát cho cả lớp. Tôi sung
sướng thấy bài văn của mình đạt điểm năm tuyệt đối (Hồi đó nhà trường chấm theo
thang điểm 5). Về nhà, tôi kể lại chuyện trên lớp. Bố tôi cười: “Thầy Tính hồi trước
học cùng trường Tây với Cậu, chỉ như cấp một các con bây giờ thôi nhưng trường
của Pháp nó dạy kĩ lắm!”
Cái làng quê cổ kính cứ thế nâng bước tuổi thơ tôi cho
đến tuổi mười bốn. Trong mười bốn năm ấy, nếu không có công cuộc “đánh địa chủ”
làm chấn động dữ dội tâm tư của một người yêu đảng, yêu nước như bố tôi để
rồi dội vào tâm hồn thơ trẻ của tôi,
nhen nhóm một ngọn lửa luôn bùng cháy để thiêu đốt những bất công sau này, thì
có lẽ tôi đã là một đứa “bảo hoàng” đáng sợ. Có bố dẫn dắt, có những người thầy
đáng kính dạy dỗ, có những trang sách cuốn hút…Tôi đã bước vào một thế giới bao
la và ngộ ra biết bao điều mới mẻ.
Có lẽ nên nhắc thêm một chuyện này: Chéo góc nhà tôi, nằm
sát bờ rào nhà Phát và ở ngay trước ngõ nhà Hoan (hai thằng bạn thiếu thời tôi
đã kể ở phần trên) là nhà ông địa chủ Hương Sáu. Bị qui địa chủ nhưng ông là
một nông dân chính hiệu, một người lao động tài giỏi, trong làng ít có ai sánh
được. Thuở bé, tôi rất hay dắt em sang nhà ông xem những con cò, con diệc cao
lêu khêu mùa bẫy chim chỉ ông bắt về được. Tôm cá dưới sông, ngoài đồng ông đi
đánh bắt cũng thường được nhiều gấp hai ba người khác. Hồi hợp tác hoá, đội sản
xuất luôn phải nhờ ông bắc mạ. Có tay ông gieo, mạ lên đều tăm tắp, ruộng mạ
đến ngày nhổ cấy đẹp như một thảm lụa xanh, lượn thành một làn sóng dù là trước
gió đông bắc mùa Đông hay gió nồm mùa hè đều thấy thật mơn mởn. Hình ảnh ấy
cũng sống trong tôi cho đến tận bây giờ. Thế mà sau cải cách, không biết ai dạy
cho mà khi mới ba bốn tuổi tôi đã biết chỉ tay vào ông Sáu mà kêu lên: “Ê! Địa
chủ…Địa chủ…” Ông Sáu chỉ cúi đầu, vác cày và đuổi trâu ra đồng. Sau này lớn
lên nghe mẹ kể tôi chỉ muốn khóc. Không biết ông Sáu nghĩ sao còn tôi thì xấu
hổ muốn chui xuống đất. Tự tôi thấy mình đáng ăn chục cái tát.
Ông Hương Sáu có hai bà vợ. Bà cả đi ở với con làm bác sĩ
và lấy vợ ngoài Vinh, thỉnh thoảng mới về nên tôi chỉ biết loáng thoáng. Bà hai
người bên Đức Thuỷ, là một nông dân thực thụ. Hình ảnh bà đọng trong tôi là một
người “đàn bà đời sơ” thường bận chiếc váy nâu sồng vận lên cao, đeo giỏ bên
hông, tay cầm chiếc móc ra đồng bắt cua và ốc. Bà siêng năng, tần tảo quanh năm
và làm nông cũng giỏi khó ai bì. Ông làm cho ba mẹ con bà một túp nhà tranh ở
riêng phía vườn sau (Ông Sáu có hai con với bà). Mùa kéo tơ, anh em tôi thường
vẫn dắt nhau sang nhà bà ngồi suốt buổi mải mê nhìn bà kéo kén quay tơ, cuộn
thành những cuộn tươi vàng, óng ả. Thỉnh thoảng bà cho mỗi đứa một con nhộng
tằm đã luộc chín, ăn ngon vô kể. Cuộc sống của “nhánh phụ” gia đình ông Hương
Sáu không ồn ào, sôi động mà cứ bình dị, lặng lẽ, lầm lũi đi xuyên qua từng năm
tháng, góp thêm sự “cổ kính” của làng tôi…
(Còn nữa)
Dấu tích cổng nhà ông Nguyễn Trọng Cầu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới