Truyện của Nguyễn Trung Ngọc
Tôi muốn thử viết về con người
chứ không phải viết về thần thánh
Tôi muốn thử viết về con người
chứ không phải viết về thần thánh
I.
Hồi
ấy khu đất vùng chợ Cồn khác bây giờ nhiều lắm. Ngay nay qua đây người ta thấy
một cái chợ quê thật sầm uất, người quê buôn bán tấp nập. Vào mùa hoa trái, dân
mấy xã miền hạ Thanh Chương dọc 2 bờ sông Lam mang đầy các loại hoa tươi quả
ngọt về đây không chỉ để đổi trao mua bán trong vùng mà còn để giao cho thương
lái từ thành phố Vinh ngược lên. Nhiều lần qua đây, tôi như được hoà vào không
khí vui nhộn mà rất lành của một chợ quê điển hình. Tôi rất thích ghé chợ Cồn.
Nhưng không phải là ghé vào mua bán mà là ghé về miền kí ức, nhớ về kỉ niệm của
một thời chiến tranh đã qua.
Thời
ấy, lần ấy, chỉ là một đêm duy nhất và đã đi qua 46 năm rồi mà sao cứ cháy mãi
trong tôi ngọn lửa của tuổi 20 không thể nào dập tắt. Có dịp là trào ra, bùng
lên, thiêu đốt và gào thét…
Một
ngày đầu thu năm 1972, trong tư cách anh lính quân nhu Trung đoàn, tôi từ Quảng
Bình ra Quân khu nhận nhu yếu phẩm và thuốc men cho đơn vị. Chuyến đi công tác
lẻ này chỉ có tôi và đồng chí lái xe trạc tuổi nhưng đã có gia đình. Chúng tôi
chạy một mạch từ bản doanh của E bộ đóng bên đường 22A khói lửa ra đến T50 ở
Nam Đàn thì đã chiều muộn. Lẽ ra chúng tôi sẽ nghỉ lại T50 của Quân khu nhưng
đồng chí lái xe đề nghị với tôi:
-
Ta chạy thêm đoạn nữa lên chợ Cồn, ở đó tôi có bà chị con bác bán trong cửa
hàng thực phẩm sơ tán từ Vinh lên đóng trên một gò đất cao rộng rãi, mát mẻ,
một nơi nghỉ qua đêm lí tưởng. Sáng mai ta nhận thuốc quân y ở Thanh Chương
trước, quay về Nam Đàn nhận hàng quân nhu rồi chạy vào luôn cũng rất tiện. Luôn
thể anh trông xe cho tôi về thăm nhà qua đêm, sáng mai tôi trở lại. Nhà ở bên
kia sông Lam, qua bến đò là đến mà!
Nghe
cũng hợp lí, tôi đồng ý để lái xe chạy lên nơi anh ta nói đến. Đó quả là một gò
đất quá thích hợp cho việc nghỉ lại của một vài chiếc xe quân sự đi công tác lẻ
như chúng tôi. Cửa hàng thực phẩm được rào quanh bằng dây thép gai khá chắc
chắn. Phía trước có một cổng to có khoá cẩn thận để bảo vệ, xe ô tô có thể chạy
thẳng vào sát bên ngôi nhà lợp lá cọ làm nơi bán thực phẩm của nhà nước, sơ tán
từ dưới Vinh lên. Chừng 17h thì chiếc gats 63 của chúng tôi yên vị trên khoảng
đất đồi đã được san bằng bên cạnh cửa hàng thực phẩm. Nền nhà cao hơn nên xe
đậu phía dưới thì thùng xe gần như ngang với nền nhà. Có lẽ khi làm cửa hàng
người ta đã có chủ ý san sân, nền thế này để đỗ xe chuyển thực phẩm cho thuận
tiện. Hạ tấm chắn sau xe xuống, mở cửa bên ngôi nhà là có thể bước lên sàn xe
một cách dễ dàng. Xe đậu trên gò cao, từ trên xe quan sát cổng đi vào và con
đường chạy phía trước giống như một đài quan sát, mình nhìn “đối phương” thì
rất rõ nhưng họ ở dưới ngước lên khó thấy được gì. Nhìn vị trí đỗ xe quá thuận
tiện, tôi thầm nghĩ: từ nay ra công tác Quân khu mình cứ đến nơi này là tuyệt
nhất.
Có
lẽ đã đến đây nhiều lần, cậu lái xe thông thạo từ cái ngõ vào, đám đất đỗ xe
bên ngôi nhà để có thể đi vào từ cửa bên không cần gặp chủ nhân từ trước quầy
hàng lúc nào cũng có khách. Xe đỗ lại sau khi phải xuống số 2 để bò sát lên cửa
hàng đang vừa lúc đóng cửa sau một ngày phục vụ. Hoà (tên cậu lái xe) dẫn tôi vào
giới thiệu với hai người phụ nữ, chủ nhân của cửa hàng:
-
Các chị ơi! Lại về quấy các chị nữa đây. Sáng mai xe bọn em lên Đô Lương nhận
hàng, ghé đỗ lại chỗ các chị một đêm. Nghỉ ở đây yên bình mà mát mẻ. Mà có gì
đâu nhỉ, các chị có một xe bộ đội đến bảo vệ cửa hàng, đêm càng khỏi lo, đúng
không? Hôm nay có anh Phương đi cùng, lính đại học sáng choang đấy. Chị Loan
thích nghe chuyện, tối nay làm ấm chè xanh chiêu đãi anh Phương, tha hồ mà
nghe!
Người
mà Hoà gọi là chị Loan là một phụ nữ trạc 30 tuổi, đẹp mặn mà, người chắc khoẻ,
đầy đặn. Nước da trắng mịn màng càng làm nổi bật làn môi đỏ đầy thách thức dưới
cái mũi thẳng sang trọng, quý phái. Loan vẫn gọi tôi bằng “anh” dù Hoà giới
thiệu là “bọn em” ra quân khu lấy hàng cho đơn vị.
Hai
người phụ nữ nhanh chóng đóng quầy hàng, dọn dẹp gọn gàng các thứ rồi mở rộng
cánh cửa của căn phòng phía đông hướng ra chỗ chiếc xe chúng tôi vừa đỗ lại.
Trong khi đó chúng tôi đi ra phía sau, múc nước từ một cái giếng rất sâu tắm
vội bằng những gàu nước mát lạnh như nước đá. Mới đầu thu chưa hết hơi nóng mùa
hè mà nước dội vào người, nổi cả da gà.
Chắc
không muốn bỏ tôi lại một mình khi vừa chân ướt chân ráo đến đây, dù tôi đã
đồng ý để Hoà về thăm nhà nhưng anh chàng vẫn rất thư thái, cùng tôi xách gạo
cùng mấy hộp thịt, ruốc bông…vào bếp bảo hai cô chủ cửa hàng cùng thổi cơm
chiều để ăn chung. Mùa hè nên ngày rất dài. Chúng tôi ăn xong mà trời vẫn chưa tối.
Cơm nước xong, Hoà mới thong thả nói, giọng đùa đùa:
- Giờ thì gửi anh Phương cho 2 chị, em
phải về với mụ vợ tí, bỏ không lâu ngày héo cả rồi!
Nghe vậy, chị nhân viên cửa hàng ở với
chị Loan bỗng cuống lên:
- Vậy thì cho chị về với! Chiều nay có
người bên làng qua đây nói chuyện chị mới biết, thằng cu lên bốn nhà chị bị ốm
mấy ngày nay. Chị đang tính về mà đi một mình lại sợ. Thôi, Hoà đạp xe chị chở
chị về luôn nhé! Ta đi hai người cũng mất chừng 30 phút.
Hoà gật đầu:
- Thế lại hoá may cho em rồi!
Giờ tôi mới biết chị Luyến (tên người bán hàng cùng
Loan) là người cùng làng với Hoà. Chính vì vậy mà hắn quen thuộc cái
gò cao chợ Cồn này như vườn nhà mình. Lần nào đi công tác qua đây Hoà cũng ghé
đỗ xe thổi cơm ăn hay nghỉ ngơi, tắm táp…
Tự nhiên tôi rơi vào một hoàn cảnh
thật đặc biệt: Trở thành người đàn ông duy nhất trong một đêm cuối tuần ở lại
bảo vệ cái cửa hàng thực phẩm nơi sơ tán và một người phụ nữ cô đơn.
Hoà
và chị Luyến đi rồi, cả khu đồi trở nên yên lặng hẳn. Tính tôi vốn ngại bắt
chuyện, nhất là đối với phụ nữ chưa quen biết. Vì thế tôi lên xe sớm, trải chiếc
bạt còn thơm mùi mới, lật chiếc ghế xe ra làm bàn và bật chiếc bóng đèn nhỏ sau
thùng xe ngồi viết nhật kí. Chếch sau thùng xe chừng 15m, dưới bóng đêm mờ ảo được
giàn Thiên Lí che kín thêm, chị Loan sau một lúc nghỉ ngơi cũng đi ra cái giếng
phía sau múc nước tắm. Sau một ngày hè làm việc tất bật, có lẽ chị đang tận
hưởng những phút tắm tiên thư thái với những gàu nước mát lấy lên từ lòng đất
sâu. Nghe tiếng nước dội, tôi tắt đèn thôi không viết nữa, cố nhìn về phía
giếng nước nhưng chỉ thấy một bóng người nhờ nhờ, hình như rất trắng, nhưng bị
bóng đêm quây chặt. Nhắm mắt mơ màng, tưởng tượng làn nước mát đang chảy trên
da thịt Loan, cả người tôi râm ran, nóng như phát sốt.
Sau
một hồi tắm xong, từ trong nhà, Loan mở cánh cửa bên bước rất nhanh về phía chiếc
xe tôi đang ngồi trên đó ngắm trăng lên. Trong bộ đồ đen cài khuy bấm, Loan đẹp
như một phụ nữ vẽ trong tranh Phục Hưng. Nàng không chút e dè, xăm xăm bước lên
sàn xe đã hạ sẵn vách chắn sau trải lên nền đất tạo nên một khoang rộng như cái
sân khấu. Xung quanh yên tĩnh lạ lùng. Chưa bao giờ tôi được thấy một người đàn
bà quyến rũ đến vậy. Đối với một người đàn ông, có thể đây là những giây phút
định mệnh. Dưới làn áo mỏng, những đường cong của cơ thể người phụ nữ một con hiện
lên thật rõ khi vầng trăng 17 đằng đông cũng vừa nhô lên khỏi rặng cây phía
dưới đường, sáng như rải bạc. Tôi cảm thấy hình như Loan không bận nội y (ngày
nay bọn trẻ gọi là “thả rông”) vì dưới lớp lụa mỏng, “toà thiên nhiên” nhô lên
trông rõ mồn một. Nàng như một bó đuốc tiến đến gần tôi là một kho xăng đầy
nguy cơ bùng phát dữ dội.
Rất
tự nhiên, Loan ngồi xuống chiếc ghế đã hạ sẵn bên thùng xe, một tay xách ấm
nước còn tay kia cầm cốc, tươi cười bảo tôi:
-
Có chè xanh đây! Nghe Hoà nói chú là lính sinh viên. Tui rất thích nghe chuyện.
Uống chè xanh cho tỉnh táo rồi kể vài chuyện trong Văn nghệ quân đội hay hay
cho nghe với nào.
-
Ối dào! Sinh viên sinh viếc gì, lính chiến trường khô cả xương rồi đây nè. À,
chị đọc truyện “Người trên đỉnh đèo” mới đăng VNQĐ số vừa rồi chưa?
Tôi
không ngờ Loan trả lời ngay: “đọc rồi!” và còn bình luận rất sắc: “Tác giả lãng
mạn hoá tình yêu của anh lính công binh – kĩ sư Xinh thôi chứ trong thực tế
người ta yêu “thực tế” hơn nhiều”.
-
Yêu “thực tế” là yêu thế nào? Trung uý Xinh có tình yêu đẹp chết còn gì! Mà chị
nói về văn chương cứ như cô giáo dạy văn ấy nhỉ. Hay là…
Loan
ngắt lời tôi nhưng giọng bỗng trầm xuống và đột ngột xưng “em” rất nhẹ nhàng (Loan
hơn tuổi tôi một chút nhưng nhìn lại không giống “chị” tí nào):
-
Nếu cuộc đời suôn sẻ em đã là cô giáo thật. Đang học dở Trung cấp sư phạm văn thì
nhà em trúng bom. May hôm đó cả nhà đi vắng hết. Em bỏ học, cùng bố mẹ và hai
em trôi dạt lên đây rồi tự trói mình vào cột đã 6, 7 năm nay rồi. Thôi, mà
chuyện dài lắm, buồn lắm, chẳng nhắc làm gì…Mà chuyến này các anh ra đây…lâu không? – Loan nhấn giọng chữ “lâu”
như một nốt nhạc. Tự nhiên tôi nghe như một lời van xin, ẩn chứa trong đó một ý
nghĩa mà chỉ có người nghe mới hiểu.
Tôi
chưa biết gì về hoàn cảnh của Loan, chỉ mới nghe Loan kể vài câu nên cũng chỉ mơ
hồ về cuộc đời cô nhưng điều này thì tôi hiểu: Người phụ nữ xinh đẹp bị chúa bỏ
quên này đang khát khao cháy bỏng. Ngọn lửa dục đang thiêu đốt nàng dễ đến độ
có thể bỏ qua tất cả để chiếm được cho mình cái mà mình muốn. Phụ nữ khi đã
thích họ liều lĩnh đến cùng.
Rồi
Loan đặt ấm chè xanh xuống đầu ghế, xoay lưng về phía tôi, nói nửa đùa nửa thật
thăm dò:
-
Hi…hi! Bộ đội giúp dân day cái huyệt vai tí nào! Suốt ngày đứng ở quày, đau
cứng sau vai gáy.
Tôi
như bị thôi miên, đang đứng trên sàn xe cầm cốc nước uống, tự nhiên thần người
ra như bức tượng, định bước mà chân không nhấc lên được, lúng túng như một đứa
trẻ. Mới hôm trước tôi vừa đọc được đâu đó câu Nam Cao giải thích về “nói nửa đùa
nửa thật”: Nói nửa đùa nửa thật là muốn nói thật cái điều không tiện nói ra. Biết
có điều đặc biệt đang đến, tim tôi bỗng đập rộn lên. Không làm chủ được mình
nữa, tay tôi bị hút vào bờ vai của Loan. Loan mặc chiếc áo cổ tim phụ nữ hay
mặc thời đó, cổ áo khoét rộng lộ ra bờ vai nõn nà, mềm mại như một cánh hoa. Vì
đứng cao hơn Loan ngồi trên ghế, tôi nhìn thấy cả bộ ngực căng đầy khó có một
người đàn ông nào cưỡng lại, nhất là trong hoàn cảnh quá “đặc biệt” này: Cả khu
đồi rộng chỉ có tôi và Loan; Cổng xa phía dưới đường đã được khoá cẩn thận;
chiếc xe đỗ giữa bãi trống bên nhà rất “đàng hoàng”; Sàn xe cao, xe lại đậu
trên gò đất cao nên trên thùng xe 2 người dù có làm gì đi nữa thì cũng chỉ có
bầu trời sao và vầng trăng vằng vặc nhìn thấy mà thôi. Có phải vì có một không
gian, thời gian quá thuận lợi mà Loan táo bạo như nữ thần Tình yêu trong Thần
thoại Hi Lạp khi đặt ra lời đề nghị tôi giúp nàng bấm mấy huyệt ở vai – cổ, nơi
đó chỉ cách mấy ngọn thiên thai phía trước chưa đầy một gang tay nữa?
Nhích
thêm nửa bước cho vừa tầm tay hơn, tôi như dính vào vai Loan, dưới cái cổ để
trần với làn da mát rượi, bàn tay vụng về cứ để yên chẳng biết day, bấm chỗ nào.
Người tôi rung lên, cổ họng khô khốc, mồ hôi túa ra, cảm giác như có một luồng
điện làm tôi tê dại toàn thân thể…
Loan
quay lại nhìn tôi, mắt đắm đuối, long lanh như hai vì sao sáng. Hàm răng và làn
môi ướt hé cười:
-
Chiến binh hay là con thỏ đấy!
Đằng
đông trăng đã lên cao hơn, vượt hết tầm chắn của những ngọn cây cao nhất trồng
dọc đường 46 và đám đất dưới chân đồi, ánh sáng vằng vặc soi rõ chiếc xe có
buộc những cành lá nguỵ trang xung quanh và trên nóc ca-bin. Gió nồm lay khẽ
những cành cây ở sườn đồi tạo nên một khung cảnh đẹp lạ lùng, yên tĩnh lạ lùng
của miền trung du xứ Nghệ.
Như
không thể kéo dài những phút chờ đợi căng thẳng nữa, Loan đứng phắt dậy, kéo
tôi ngồi xuống ghế rồi ghì mái đầu thằng đàn ông khờ khạo vào ngực mình. Hai
chiếc khuy bấm phía trên đã bung ra từ lúc nào, tôi như ngạt thở giữa bộ ngực
trần hé mở của nàng. Trên đôi cánh thiên thần, cả người tôi như được nhấc bỗng,
bay lên tầng mây xa tít. Loan nhũn ra như sợi bún, chuồi xuống sàn xe đã trải
sẵn chiếc bạt mới sạch sẽ, vòng tay ôm chặt vai tôi kéo theo…Tôi không kịp phản
ứng gì trước sự táo bạo khó lường của Loan, có thể bởi sự khát khao nhục thể
cao độ, cũng có thể vì một lí do tinh thần khác. Trong cơn hứng tình mê mẩn,
tôi cứ mặc cho Loan muốn làm gì thì làm. Nàng vừa đưa tay định cởi chiếc áo
Đông xuân màu cỏ úa trên người tôi thì bỗng có tiếng động cơ như là của một
chiếc máy bay AD6 bay từ hướng biển lên rồi mấy tiếng “bụp! bụp!”...phát ra
giữa trời đêm, đồng thời xuất hiện những vệt khói – lửa dài: Máy bay địch thả
pháo sáng!
Những
chiếc đèn dù treo lơ lửng bên đường 34 gặp gió bay khá nhanh về hướng tây. Nghĩ
là địch muốn đánh chặn hướng truông Bồn nhưng để an toàn, tôi giục Loan đi về
phía chiếc hầm trú ẩn sau nhà còn mình thì nhảy lên ca bin nổ máy đánh xe ẩn
vào rặng cây bên trái cửa hàng, vừa rất kín đáo, vừa khuất bên sườn đồi tránh
bom rất tốt. (Tôi biết lái loại gats 63 nhờ sống gần tiểu đội xe vận tải của
Trung đoàn lại thường xuyên đi lấy hàng với cánh lái xe. Trong những chuyến đi
dài nhiều lúc tôi vẫn cầm lái thay cho tài xế những đoạn đường dễ). Che lại mấy
cành nguỵ trang quanh xe cho kín đáo hơn, tôi quay lại chỗ Loan đang đứng cạnh
chiếc hầm chữ A làm rất chắc chắn và rộng rãi đủ cho chị Luyến và Loan nằm
trong đó những hôm máy bay Mĩ oanh tạc trong vùng. Thấy tôi đến, Loan vẫn cái
giọng nhẹ nhàng tối nay thường nói với tôi:
-
Bộ đội là phải, gan lì gớm! Anh không sợ máy bay à? Ta vào hầm đi!
-
Chưa cần đâu! Cứ bình tĩnh quan sát vòng lượn của thằng AD6 để nắm được mục
tiêu nó đang hướng tới là ta không phải sợ gì nữa!
Loan
bỗng đổi giọng như là dỗi tôi mà rất ý tứ:
-
Không sợ? Có mà anh lúc nào cũng sợ, cũng căn ke như một kĩ sư xây dựng làm
móng nhà lúc nào cũng thấy chưa đủ vững.
Rồi
bỗng Loan bỏ tôi lại một mình bên hầm, đi thẳng vào trong cửa hàng, mặc cho tôi
can ngăn, mặc cho mấy chiếc pháo sáng vẫn còn treo lơ lửng và tiếng máy bay vẫn
ì ì vọng lại từ sau núi. Loan lịch kịch sửa soạn một lúc rồi dắt chiếc xe đạp
nữ đèo một túi nhỏ phía sau ra khỏi cửa hàng gọi tôi:
-
Anh Phương…Chú Phương! Loan cần về nhà. Nhờ anh trông giúp cửa hàng đêm nay,
sáng mai chị Luyến đến. Mai Loan được nghỉ bù. Phải về…! Lúc đầu cũng định ở
lại nhưng…thôi, chúng ta không có duyên gần nhau. Khoá cổng đây, anh cầm khi
cần mà mở. Chào nhé!
Và
Loan không cho tôi hỏi gì thêm, đi xuống mở cổng ra đường. Trên bầu trời, mấy
chiếc pháo sáng đã tắt, chỉ còn những vệt khói làm ánh trăng trở nên u ám, xám
xịt. Chiếc máy bay bà già cũng đã bay đi không thấy quần đảo gì thêm. Phía dưới đường, một tốp nam nữ dân quân được
điều đi ứng cứu giao thông cũng vừa lúc đạp xe đi từng hai người một hướng xuôi
xuống vùng núi Đụn. Tôi thấy yên tâm hơn khi Loan có tốp người ấy làm bạn
đường. Nhìn đồng hồ, tôi thấy kim chỉ đúng 21 giờ.
Loan
đi rồi tự nhiên tôi thấy trống vắng, một cảm giác có lỗi cứ ám ảnh tôi. Không!
Tôi không làm gì cả! Nhưng có lẽ chính điều ấy cứ làm tôi day dứt. Tôi có phải
là một thằng đàn ông chân chính? Chắc là tôi đã ngoan ngoãn vào hầm khi Loan
nhắc, nếu bấy giờ không nghĩ đến bộ hồ sơ kết nạp đảng mới gửi chi bộ tuần
trước.
Đoán
chắc trong đêm không còn máy bay địch quấy phá nữa, tôi lùi xe chừng 20m trở
lại vị trí ban đầu sát bên cửa hàng rồi leo lên sau thùng xe, ngồi đúng nơi ngồi
ban nãy. Hương bồ kết Loan vừa gội đầu như vẫn còn phảng phất trên cái thùng xe
trải bạt cho giấc ngủ đêm nay của tôi.
Và
tôi suy nghĩ miên man…
Phải
có lí do gì đấy, đặc biệt hơn chúng ta vẫn tưởng nhiều, một người phụ nữ đẹp
như Loan, thông minh như Loan mới lẩn khuất nơi này, muốn trao mình cho một anh
lính, nay đây mai đó, biết sống chết ngày nào? Nhà nàng ở đâu? Sao lại đột ngột
về trong đêm. Vì giận tôi hay còn vì một lí do nào khác?
II.
Sáng chủ nhật.
Ở
vùng quê người ta ít phân biệt đầu hay cuối tuần, nhất là thời chiến tranh. Có
khi cả tháng cứ lầm lũi đi làm, quên cả ngày tháng. Nhưng chị Luyến và Loan làm
ở cửa hàng là “làm nhà nước” nên vẫn có những bữa chủ nhật thay nhau để nghỉ. Hơi
lạ là sáng nay tưởng chị Luyến về nhà sẽ nghỉ luôn hết ngày, thì mới chừng 5
rưỡi sáng, tôi vừa kịp dậy thể dục và đánh răng rửa mặt xong đã thấy Hoà đèo
chị xuất hiện đầu dốc dưới đường. Chị Luyến vừa mở khoá cánh cổng vừa gọi từ
xa:
- Loan ơi! Chị quên dặn nên phải sang
sớm đây! Chuẩn bị gì ăn sáng đãi khách chưa?
Tôi vội chạy xuống đỡ lời chị:
- Chị Loan về nhà từ tối qua rồi chị
ơi. Sau khi chị và Hoà về khoảng hơn một tiếng thì chị Loan cũng về, lúc máy
bay thả pháo sáng vừa tắt ấy. Chị ở bên kia thấy máy bay thả đèn dù chứ?
Chị Luyến có vẻ ngạc nhiên:
- Ối cái con này, chiều qua đã hẹn sẽ
ở lại để giúp chị việc này rồi mà. Chắc lại nhớ con bé quá nên về ôm đít nó rồi.
Ừ, mà được ngày nghỉ…cũng tội nó!
Rồi
chị đi lên mở cửa bên của ngôi nhà, đi vào trong cửa hàng lấy ra một cái rá tre
rồi đổ mớ củ Từ đã luộc sẵn đặt lên chiếc bàn thô sơ ngoài thềm gọi tôi và Hoà:
- Chị có món tuyệt vời cho hai chú ăn
sáng đây! Khoai Từ ngon lắm. Chị luộc cả đêm qua. Ăn thật no vào mà đi. Có khi
tận trưa mới được ăn cơm quân khu, đói lắm đấy!
Chúng tôi vừa ăn khoai Từ vừa nghe chị
Luyến kể chuyện. Thằng bé con chị đã cắt sốt, chị yên tâm qua cửa hàng sắp xếp
lại quầy để chuẩn bị cho thứ hai kiểm kê. Loan về chắc chốc nữa lại lên, đã hẹn
với chị chủ nhật này hai chị em “lao động cộng sản” một bữa. Hai thằng chúng
tôi chén gần hết cả rá khoai. Thời bao cấp, thời chiến tranh, sao người Việt
mình ăn nhiều lương thực đến vậy: Lính lái xe như Hoà những tháng chiến dịch
được cấp những 29 kí gạo.
Ăn
xong, tôi và Hoà lên xe ngược đường 46 đến nơi sơ tán của Viện 4 hồi bấy giờ để
nhận thuốc tây cho đơn vị. Chúng tôi tính với nhau không quay lại đường 46 nữa
mà chạy tắt qua đường 15 về Nam Đàn để xuống mấy kho quân trang ở T50. Khoảng
10 giờ thì chúng tôi về đến Nam Yên. Cả tôi và Hoà bàng hoàng khi nhìn thấy một
quang cảnh thật kinh khủng: hai xóm dân bên đường 46 đoạn qua Nam Yên tan hoang
bởi một thảm B52 vừa rải đêm qua. Thảo nào khoảng giữa đêm vừa rồi, nằm trên
chợ Cồn tôi cứ nghe tiếng ì ùng vọng lên kéo dài cả năm, sáu phút.
Mặt
Hoà biến sắc khi nhận ra con đường đi vào T50 bị bom B52 băm nát, cây cối, nhà
cửa đổ ngổn ngang, bùn dưới các ao cá tung lên lấp cả lối đi. Cậu ta thở hổn
hển, nói giọng đứt quãng:
-
Đêm qua tôi định đánh xe vào đường này đậu lại để anh em mình nghỉ qua đêm ở
đây. Số mình chưa chết! Ối, nhưng mà anh ơi, không khéo tối qua chị Loan về đây
thật rồi, nhà chị trong xóm.
Tôi
lặng người. Cả hai chúng tôi vội tìm chỗ nép xe rồi nhảy xuống, chạy qua muôn
thứ chướng ngại, hướng vào phía trong xóm. Hoà dẫn tôi chạy được chừng hơn trăm
mét thì dừng lại trước một bờ tre xơ xác như có một lưỡi dao khổng lồ vừa chặt
phá, phía bên kia, một hố bom to tướng đã thay vào chỗ mà trước đó, theo Hoà,
là ngôi nhà của bà cháu, mẹ con Loan. Thấy có 2 anh bộ đội đến, một tốp dân
quân kéo lại nói cho chúng tôi biết nhà Loan đã trúng bom như thế nào. Cả tôi
và Hoà gần như nghẹt thở khi nghe họ cho hay: cả Loan cùng bà mẹ chồng và đứa
con nhỏ đang nằm ngoài sân kho hợp tác, nơi xã tạm dùng làm chỗ đặt xác của tất
cả bà con xấu số bị sát hại trong trận bom đêm qua để đầu chiều đưa ra nghĩa
trang.
Chúng
tôi chạy đến sân kho, một cảnh tượng thật kinh hoàng mà chỉ trong chiến tranh
mới có: Mấy chục xác người nằm la liệt quanh cái sân kho hợp tác, người đã liệm
trong quan tài, người đang đắp chiếu chờ áo quan chưa mua về kịp. Tiếng kêu
khóc dậy cả một vùng thôn quê nghe thật não nùng, ai oán. Hai nữ dân quân dẫn
tôi và Hoà đến phía góc sân chỉ 3 chiếc quan tài không sơn, 2 to, một nhỏ nói
trong nước mắt: “đây hai anh! Chị Loan, mẹ chồng và con gái chị đó…” Hàm răng
nghiến chặt nhưng tôi đã bật khóc theo Hoà. Hai vai rung lên, tự nhiên tôi kêu thành tiếng nghẹn ngào: “Loan…ơi…! Vì tôi mà
em chê…ết…” Không ai hiểu gì. Cả Hoà cũng không hiểu gì. Nhưng trong giờ phút
mà lòng căm thù giặc đang dâng lên cao độ, chẳng ai chú ý...
Tôi
và Hoà ở lại tận hai giờ chiều để đưa Loan và những bà con xấu số ra nghĩa
trang. Vậy là từ đây, hàng năm ở Xuân Hoà (Nam Yên trước đây) có ngày giỗ chung
của những người dân lành đã chết một cách đau thương trong cái đêm bi thảm ấy.
Xong việc tang chúng tôi mới loay hoay vào cục hậu cần Quân khu xin lại lệnh
cấp quân trang mới vì cái kho định đến đã bị B52 địch xoá sổ. Chừng
16 giờ hôm đó chúng tôi mới làm xong mọi việc để lên đường trở về Quảng Bình.
Tính là xe chạy đêm cũng không đáng sợ nhiều, Hoà bàn với tôi cứ theo đường gần
hơn mà đi. Chúng tôi đã đi theo đường 1 và may mắn không vấp phải một cản trở
nào. Gần suốt cả một đêm để chạy về bên kia Đèo Ngang, Hoà có đủ thời gian để
kể hết cho tôi nghe về người chị họ rất gần gũi với cậu ta, trong niềm tiếc
thương vô hạn.
*
* *
Loan là con gái lớn của một gia đình “Địa chủ nghèo”
bên đất Hà Tĩnh. Cải cách ruộng đất, bố Loan bị qui là “thành phần phản động”
nên sau đó ông đã đưa cả nhà chạy sang đất Thanh Chương sinh sống ở một cái
làng mom sông cách chợ Cồn vài ba cây số để tránh sự kì thị của dân quê nơi
chôn rau cắt rốn. Gọi là “Địa chủ nghèo” vì thực ra ông nội Loan cũng chẳng có
gì nhiều ngoài cái tước “Quan Hàn” được triều đình Nhà Nguyễn sắc phong thời
trước cách mạng. Ông bị giam rồi chết vì bệnh tật ở một trại cải tạo trên núi
Hồng Lĩnh. Còn bố Loan được coi là “phản động” vì ông từng làm thông ngôn cho
chính quyền thực dân Pháp. Hồi cải cách, Loan mới chỉ là cô bé con chưa biết
gì, bố mẹ mang đi đâu thì đi đó. Bên bờ sông Lam, cô hồn nhiên lớn lên như cây
cỏ. Sẵn tư chất thông minh lại được người bố giỏi về Tây học kèm cặp, Loan học
môn gì cũng giỏi, dù là tự nhiên hay xã hội.
Đặc biệt, nhờ có nguồn nước sông Lam trong lành của
miền trung du, Loan có nước da trắng mịn, mái tóc óng ả buông dài. Mười bảy
tuổi, cô đẹp như một ánh trăng rằm, đẹp nổi tiếng cả vùng. Những chàng trai “có
máu mặt” bắt đầu để ý đến người con gái tài sắc này, chỉ trừ cái lí lịch là hơi
ngần ngại.
Loan tốt nghiệp phổ thông với một thành tích đáng nể. Cô
“thừa điểm” để được chọn đi học nước ngoài. Dĩ nhiên, người như Loan hồi đó
không thể qua được “cửa ải chính quyền”, cô bị hạ xuống hai bậc trên các nấc
thang tuyển sinh (1 bậc là không được đi nước ngoài, một bậc nữa là không được
vào đại học). Người ta vớt vát cho cô đi học Văn – Sử ở trường Sư phạm “Mười
cộng ba” miền núi. Mới đến trường chân ướt chân ráo, nghe theo tiếng gọi cứu
nước, Loan xung phong nhập ngũ, cùng rất nhiều bạn bè trang lứa đi ra tiền
tuyến, trở thành một nữ quân nhân thực thụ. Là một cô gái xinh đẹp lại múa giỏi
và ngâm thơ rất hay, Loan được điều về đoàn văn công Trung đoàn (hồi đó gọi là
Đội tuyên truyền văn hoá). Vừa làm công tác văn hoá, vừa phục vụ chiến đấu,
chẳng mấy chốc Loan trở thành ngôi sao sáng lung linh giữa cơ quan E bộ. Một cô
gái đẹp và giỏi giang như Loan làm sao không có người để ý. Cô dính chuyện yêu
đương với thiếu uý Tường, trợ lí văn hoá, đang phụ trách Văn công Trung đoàn,
một sĩ quan trẻ, học gần xong Đại học tổng hợp thì nhập ngũ. Hồi bấy giờ, đấy
là chuyện cấm kị trong quân đội. Nhưng mối tình của hai người đắm say như
Rô-mê-ô và Juy-li-et nên dẫn đến bi kịch cũng là điều dễ hiểu.
Một hôm, sau mấy ngày đi phục vụ một đơn vị chiến đấu
ra mặt trận, Loan và Tường trở về nơi ban chỉ huy Trung đoàn đóng trong một khu
rừng của miền tây Quảng Bình. Họ đang hôn nhau bên bờ suối thì bị tham mưu
trưởng Trung đoàn bắt gặp. Ông là một đại uý đã qua trận mạc nhiều, chỉ học lớp
5 nhưng đánh trận rất giỏi, đặc biệt nóng tính và nghiêm nghị. Vậy là đôi uyên
ương kia không thoát được vòng kỉ luật: Tường thôi làm trợ lí ở Trung đoàn,
được điều về một tiểu đoàn đang tham chiến ở mặt trận phía tây; Loan được trả
về địa phương với một vết đen thêm vào trong lí lịch. Nhưng tình yêu của họ là
một tình yêu đẹp. Loan chờ đợi. Hơn một năm sau, Tường về quê Nam Đàn, lên
Thanh Chương tìm Loan và hai người tổ chức đám cưới. Mấy ngày sống bên nhau hiếm
hoi ấy đã để lại cho họ một cô con gái nhưng thương thay, không biết có phải bố
nó dính chất độc trong chuyến đi C không, cháu bị tật bẩm sinh. Khi cháu mới
vừa 3 tháng tuổi, Loan nhận giấy báo Tường hi sinh ở Mặt trận Nam Lào, khi anh
đang là một phóng viên Mặt trận đầy hứa hẹn.
Mất chồng – người đàn ông mà theo Loan, “không dễ gì
gặp trong cõi đời này”, người phụ nữ quá nhiều bất hạnh tưởng như không thể
gượng lên được nữa. Tường điển trai, hào hoa, thông minh mà mạnh mẽ vô cùng. Loan
thường nói với Hoà, chị ghét nhất loại đàn ông èo ợt, chẳng dám quyết một điều
gì cho ra dáng đàn ông. Yêu cũng còn ngó nghiêng xem chi bộ có ý kiến gì không!
Nghe Hoà kể, tự nhiên tôi thấy hổ thẹn với mình: Đêm
qua, khi bảo Loan chưa cần vào hầm mà đứng ngoài quan sát vòng lượn của chiếc
AD6, thật ra đấy là lúc tôi nghĩ đến bộ hồ sơ vào đảng mới gửi cho cấp uỷ. Và
tôi đoán chắc, Tường là mẫu thanh niên rất bản lĩnh, kiểu người có tư tưởng phá
cách mạnh mẽ đã làm Loan yêu say đắm và không sao quên được. Có thể đây là sự
giải mã cho việc đêm qua Loan đã bỏ về khi thấy tôi cứ lừng chừng, quanh quẩn
với mấy cái đèn dù và chiếc máy bay.
Trải qua một ngày làm việc cật lực mà Hoà vẫn không hề
mệt mỏi. Cậu ta như muốn giải bày với tôi hộ cho Loan để vơi bớt nỗi buồn về
cái chết của người chị họ. Khi bố Loan đưa vợ con từ Hà Tĩnh sang Thanh Chương
sinh sống, ông kéo theo cả người em ruột là bố Hoà cùng đi. Hai chị em Loan và
Hoà gần tuổi lại chơi thân với nhau từ nhỏ, không có chuyện gì mà Loan không
nói với cậu em trai con chú này. Xe đi qua mấy vùng trọng điểm, chạy êm hơn
trên một quãng đường bằng. Giọng Hoà như đỡ buồn hơn khi quay sang hỏi tôi:
- Tháng trước đã có lần ta đi qua chợ Cồn về dưới T50 và
chị Loan đi nhờ xe xuống Nam Yên. Không biết anh còn nhớ không chứ chị Loan thì
lại rất ấn tượng với chuyến đi đó. Chẳng dấu gì anh, tuần trước tôi cũng vừa
mới qua chợ Cồn và nghỉ lại đó một đêm, chị Loan đã hỏi về anh rất kĩ. Chị ấy
bảo: Sao anh giống anh Tường quá, cũng là sinh viên đại học vào lính, cũng có
tên với vần “ương” ở cuối chắc “ương” lắm đây! Chỉ ngồi xe một đoạn từ chợ Cồn
xuống trạm 50 mà chị mê anh thật đấy.
Tôi hỏi Hoà với một giọng nghiêm chỉnh:
- Hoá ra chị em ông định cài bẫy tôi?
Hoà cự lại:
- Anh nói thế thì lại hơi coi thường chúng tôi đấy. Đừng
tưởng chị Loan là gái goá nên muốn tìm trai nhá. Tết vừa rồi có tay bí thư
huyện chết vợ muốn “đặt vấn đề” chị gạt bay đấy. Bao nhiêu đàn ông đến vo ve,
chị coi như bọt biển. Từ ngày chồng mất, chị như cái tượng gỗ, một mình lo cho
mẹ chồng và đứa con gái không ngó ngàng gì bên ngoài đã gần 4 năm nay. Đàn ông
không dễ gì gần chị đâu. Có thể từ ngày gặp anh, tuổi xuân, bản năng con gái
trong chị mới sống lại. Điều đó ở đàn bà nhiều khi cũng không sao hiểu được.
Chỉ biết, có lần chị tâm sự với tôi: “Con người ta hơn nhau ở cái tâm hồn Hoà ạ!
Từ ngày mất anh Tường chị chỉ gặp những thằng đàn ông nhạt thếch và hợm hĩnh.
Chị mà gặp lại được một người như anh ấy, không lấy nhau cũng được, chị sẽ kiếm
thằng con trai để rồi sống với nó lúc về già”. Tôi thương chị quá! Xin lỗi,
thấy chị thích anh, tôi cứ muốn để chị được gần anh thêm...Biết đâu, đó là sự
sắp đặt của chúa.
...
Càng nghe Hoà nói tôi càng như người tỉnh dần cơn mê,
nhớ lại tất cả những gì diễn ra đêm qua giữa tôi và Loan trên cồn đất cao tắm
đầy ánh trăng huyền diệu. Nhưng là trăng 17, nghĩa là gần như trăng rằm. Mà lại
là trăng của tháng đầu thu, tức tháng 7 – Rằm tháng 7! Người xứ tôi nói là
thiêng lắm.
Trong tiếng gió vi vu qua cửa xe, tôi như nghe có
giọng thì thào của Loan: Em tưởng đã gặp được anh – Người trong mộng. Đâu biết anh
cũng chỉ là một đảng viên tốt mà thôi – có lẽ vậy! Nếu biết lí lịch Nguyễn
Thanh Loan chắc rồi anh cũng lảng ra. Anh là Bộ đội Cụ Hồ nhưng chưa phải là
một Người Đàn Ông đích thực mà em tìm
kiếm./.
Đầu
Đông 2019
NTN
Tác giả Nguyễn Trung Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới