13 tháng 6, 2013

Uyển ngữ và ngoa ngữ

       Chử Anh Đào

            “ Uyển ngữ” (nói giảm, nói tránh) là một trong những biện pháp tu từ từ vựng tiếng Việt. Như tên gọi, biện pháp này giảm hoặc tránh cho đối tượng giao tiếp những tổn thương, thậm chí có phần được an ủi, vỗ về. Chẳng hạn, để nói về sự “chết”, nếu tôn trọng người đã nằm xuống, người ta sẽ dùng các từ “từ trần”, “tạ thế”, “qui tiên”, “ gặp các Cụ Mác- Lênin”…Để tránh đau buồn, người ta sẽ nói  “ đi”,“ về”, “ khuất”, “ khuất núi”…Ví dụ; “ Ôi bóng người xưa đã khuất rồi”:Ông mất năm nao ngày độc lập… Bà về năm đói làng treo lưới” ( Tố Hữu) Ngoài ra người ta còn có thể diễn đạt bằng những từ ngữ khác: “ Những lăm lòng nghĩa lâu dùng/ Đâu biết xác phàm vội bỏ” (Nguyễn Đình Chiểu); “ Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời” (Quang Dũng)
            Tương tự như thế, nếu so sánh hai cách nói: “Cô ấy không còn trẻ nữa”/ “Cô ấy già rồi”; “Chị hát không hay lắm”/ “Chị hát quá dở”: “Trông bà cụ nhà anh không được khỏe lắm”/ “Bà cụ nhà anh yếu quá”;  …thì sẽ thấy ngay sự uyển chuyển, tế nhị cần thiết biết chừng nào!
            Ngược lại với nói giảm, nói tránh là ngoa ngữ (phóng đại, nói quá). Mục đích của biện pháp này là nếu “ trừ hao” đi thì sự vật, hiện tượng vẫn có một cốt lõi sự thật. Ví dụ:
            - Lỗ mũi mười tám gánh lông
       Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho ( Ca dao)
            Cốt lõi sự thật: lỗ mũi rất nhiều lông
            - Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt
            Đảng ta đây xương sắt da đồng
            Đảng ta muôn vạn công nông
            Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin ( Tố Hữu)
            Cốt lõi sự thật: tác giả muốn ca ngợi Đảng cộng sản Việt Nam có đội ngũ đông đảo, có sức mạnh vô song và niềm tin vững chắc.
            Cũng như việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ khác, nếu chân thành, không giả dối, đúng đối tượng, đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ phát huy tác dụng to lớn: thông báo ngắn gọn, chính xác, hấp dẫn người đọc, người nghe. Thực tiễn đáng bàn ở đây là (ngoài một thành tích, ví dụ trồng hai chục gốc chè xanh “ để cải thiện đời sống” mà phòng ban, công đoàn, đoàn thanh niên đều vơ vào mình) người ta đã lạm dụng, đánh tráo khái niệm. Trong các tổng kết của tập thể, cơ quan, khi nói đến thành tích thì người ta dùng ngoa ngữ: “Quán triệt và tin tưởng sâu sắc”, “tuyệt đại bộ phận”, “cực kì to lớn”, “vô cùng vẻ vang”, “nâng lên tầm cao mới”… Còn khi nói đến nhược điểm, yếu kém, người ta lại dùng uyển ngữ : “Có lúc có nơi” (nhan nhản), “ có biểu hiện của mất đoàn kết” ( nội bộ xâu xé, lục đục), “ một bộ phận không nhỏ” (bộ phận lớn)…
            Cách sử dụng ngôn ngữ như thế tạo nên sự phản cảm, hạn chế tác dụng giáo dục và tuyên truyền./.   
                        13/6/13
                         C.A.Đ


                      Tác giả bài viết Chử Anh Đào ngoài cùng bên phải




10 tháng 6, 2013

Người đẹp

                    Chử Anh Đào
          
  Trong lịch sử, Arixtot ( thế kỉ VI trước CN) là người đầu tiên tập trung cái nhìn mĩ học vào vẻ đẹp của con người, cả về mặt hình thể và thế giới tâm hồn của nó, coi con người là đối tượng ưu tiên số một của nghệ thuật.
            Mỗi dân tộc, mỗi thời đại lại có những mẫu người đẹp riêng của mình. Tương ứng với điều đó, nghệ thuật mỗi giai đoạn lại có những nguyên tắc thi pháp thể hiện người đẹp khác nhau.( Ví dụ để tả Kiều hay Tây Thi, các tác giả chắc chắn phải sử dụng những khuân mẫu “ chim sa cá lặn”, “ nghiêng nước nghiêng thành”, “ thu thủy xuân sơn”…) Nhưng đến “ Người đẹp” của Lò Ngân Sủn- nhà thơ dân tộc Dáy thì thật độc đáo và đặc biệt:
                        Người đẹp trông như tuyết
                        Chạm vào lại thấy nóng
                        Người đẹp trông như lửa
                        Sờ vào lại thấy mát
                        Người không khát- Nhìn thấy người đẹp cũng khát
                        Người không đói- Nhìn thất người đẹp cũng đói
                        Người muốn chết- gặp người đẹp lại không muốn chết nữa

                        Ơ!
                        Người đẹp là ước mơ
                        Treo trước mắt mọi người!
            Độc đáo và đặc biệt, trước hết, là vì nó khác với thông lệ của chủ nghĩa hiện thực. Người đẹp không được miêu tả với các bộ phận tay chân mặt mũi, lời nói, dáng đi… Người đẹp được so sánh với hai hiện tượng đối lập; “ tuyết” ( lạnh) và “ lửa” ( nóng). Tác giả cảm thụ, chiêm ngưỡng người đẹp bằng mắt và bằng…tay, theo cách riêng của dân tộc mình: “ Ai viết tên em bằng ánh sáng/ Ai vẽ hình em bằng ánh trăng?” ( Dân ca Dáy). Các điệp ngữ “ Người đẹp trông như”, “Chạm ( sờ) vào lại thấy” vừa có tác dụng gây ấn tượng, khắc sâu vừa thông báo những phát hiện mới, thú vị, bất ngờ: điều cứ ngỡ như vậy, tưởng như vậy hóa ra không phải, thậm chí còn ngược lại, tưởng lạnh mà lại nóng; tưởng nóng mà lại mát. Đây là những câu thơ có tầm biện chứng của triết học!
            Vẫn theo cấu tứ đối lập như ngược đời ấy ở các câu thơ tiếp theo, “ Nhìn thấy người đẹp” thì sẽ “ không khát”/ “ cũng khát”; “ không đói”/ “ cũng đói” và đặc biệt là “ muốn chết”/ “ lại không muốn chết nữa”. Cái Đẹp một lần nữa đã  cứu rỗi sự sống, “ cứu chuộc thế giới” ( Fedo Dosxtoevxki)
            Ai nhìn thấy người đẹp? Bốn câu thơ đầu không có chủ ngữ, không có đối tượng thông báo. Ba câu nối tiếp là “ người”. Câu kết chỉ rõ: “ Mọi người”. Tất cả, không trừ một ai. Hướng tới cái Đẹp, sáng tạo và cảm thụ, tận hưởng cái Đẹp là qui luật phổ quát toàn nhân loại. Đối tượng cái Đẹp ở đây ( là người đẹp) cũng mang tính phổ quát như thế!
            Những câu thơ cuối thể hiện sự ngạc nhiên mãi không thôi trước cái Đẹp. Một trong những tiêu chí của cái Đẹp là sự phát triển hài hòa, cao nhất so với sự vật, đối tượng cùng loại. Phải từ hiện thực, đỉnh cao của hiện thực, cái Đẹp mới lung linh tỏa sáng. “ Ơ! Người đẹp là ước mơ”. Ước mơ này có cơ sở từ thực tiễn, không xa xôi huyễn hoặc mà ngay “ trước mắt”, mà nhiều người đã có cơ hội “ chạm vào”, “ sờ vào” nó. Cái Đẹp đang mời gọi hạnh phúc- nói theo ý của nhà văn Pháp Stăngđan. Đó cũng là cảm xúc rất người, thấm đẫm chất nhân văn của Lò Ngân Sủn.

            Có thể nguyên mẫu là những người con gái bản Tung nhọc nhằn, lam lũ mà sạch như nước suối đầu nguồn, thơm như hoa lê, hoa mận lưng chừng dãy Hoàng Liên Sơn quanh năm mây phủ, xa hút nơi cuối trời Tây Bắc, “ Người đẹp” đã bước vào văn chương, trở thành một trong những hình tượng thơ không phai nhòa cùng năm tháng. “ Người đẹp” ắt trẻ mãi không già!
CAĐ

7 tháng 6, 2013

"Mại dâm đồi trụy"

Chử Anh Đào
           
 Còn nhớ trong một lần trao đổi, tôi đã đề cập tới tình trạng báo động, sử dụng sai, làm hỏng ngôn ngữ tiếng Việt. Thực tế này xảy ra không chừa đối tượng, vùng miền nào: Từ trẻ em tới các trí thức hạng nặng, từ thôn cùng xóm vắng tới đài báo trung ương…( Ví như việc sử dụng ngôn ngữ mạng, từ đặt ra chính tả mới, sử dụng từ Hán- Việt, tiếng nước ngoài…)
            Gần đây, để quản lí tốt xã hội trong lĩnh vực sinh lí, thay vì tăng cường các biện pháp vận động, giáo dục thì, cũng như nhiều lĩnh vực khác ở nước ta, người ta tăng cường các hình thức…phạt! Hình như hễ không quản lí được là cấm, là phạt. Nó thô bạo và phản giáo dục, phản nhân văn thế nào ấy. Cụ thể, trong nội dung dự thảo nghị định qui định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội…: “Phạt từ 5 tới 10 triệu đồng với những người mại dâm đồi trụy”. Khoan nói tới hình thức, giá cả mà chỉ bàn về ngữ nghĩa. Ý của nội dung văn bản là phạt những người mua dâm. Vậy phải dùng từ “mãi” (Trong tiếng Hán- Việt, “mãi” có nghĩa là “mua”; “mại” là “bán”. Hiện nay, trong lĩnh vực thương nghiệp, người ta thường sử dụng sai những từ này)
            Tiếp đến, tiếng Việt có những đơn vị ngôn ngữ như từ, nhóm từ (cụm từ, ngữ), câu…Người ta chỉ sử dụng những từ phụ (trước hoặc sau) những danh từ, động từ, tính từ để làm rõ nghĩa cho những danh, động, tính từ ấy. Nếu ngoài mục đích như vậy là thừa, không cần thiết, là sai, là mắc vào bệnh sính chữ nghĩa như trong trường hợp “mại dâm suy đồi”
            Từ “dâm” có các nét nghĩa: mưa lâu ngày, những gì vượt qua giới hạn mà xã hội qui định (vd: dâm vũ); mê hoặc (vd: Phú quí bất năng dâm); tà, bất chính (vd: “Kim Bình Mai” của Tiểu Tiểu Sinh từng bị coi là “dâm thư”, “dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ”-THĐ- tiếng hát bất chính không thể làm điếc tai quân giặc); trai gái giao tiếp vô lễ (vd: ấu dâm, dâm đãng, dâm loạn, dâm dật, gian dâm, thông dâm, dâm phu, dâm phụ…) Như vậy, từ “dâm” không có một nét nghĩa tích cực nào. Nó biểu hiện những hành động xấu xa, trái với lễ, với đạo đức.
            Thêm nữa, trong trường liên tưởng ngôn ngữ của con người, khi nghe một từ nào đấy người ta thường nghĩ tới những từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa với chúng. Cả “đồi” và “ trụy” đều có nét nghĩa chung là: rơi xuống (dưới nức bình thường, dưới chuẩn). Theo luật sư Giang Hồng Thạnh thì: “ Đồi trụy là sự thể hiện bằng hành động, bằng hình ảnh, bằng âm thanh lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng đến mức tồi tệ về đạo đức, trái với thuần phong mĩ tục của dân tộc”. Vậy đã mua bán “dâm” thì tất yếu là “đồi trụy” rồi. Làm gì có mua bán dâm “trong sạch, vững mạnh”, không “đồi trụy”? Tương tự như mua bán “danh”, mua bán “chức quyền” thì lấy đâu ra sự thanh khiết? Như ông bà ta nói, làm sao “cứt nát lại có chóp”, “chó ghẻ có mỡ đằng đuôi" được!
            Vì những lí do trên, tôi đề nghị bỏ từ “đồi trụy” trong các văn bản chính thức sẽ có thể ban hành. Chỉ dùng những từ phụ để bổ sung, làm rõ nghĩa cho từ chính trong những trường hợp có thể có nhiều tình huống xảy ra. Ví dụ: “Điện ảnh cách mạng” để phân biệt với “điện ảnh đồi trụy”;  “không tặc” để phân biệt với phi hành đoàn và hành khách; “lâm tặc” để phân biệt với người trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng; “cao tặc” để phân biệt với công nhân cao su…
                                                                        PK 7/6/13
                                                                          C.A.Đ


6 tháng 6, 2013

Phản biện

Tên đề tài KLTNNhững người đàn bà tắm – hành trình tự hủy diệt và tự cứu vớt của người phụ nữ
Ngành: Ngữ văn  
SV thực hiện: NĐGT
GV hướng dẫn: TS. PTV
GV phản biện: HTS                                     
1.   Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài: 
Vào những năm cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, nữ văn sĩ Thiết Ngưng trở thành một tác giả sáng giá trong nền văn học đương đại Trung Quốc. Cùng với các thể loại truyện ngắn, truyện vừa, tạp văn và bút kí… thì các cuốn tiểu thuyết của Thiết Ngưng như Cửa hoa hồng, Thành phố không mưa và Những người đàn bà tắm đã đưa bà thành một trong những cây bút hàng đầu của Trung Quốc thời hiện tại. Đó cũng là một trong những nguyên do để Thiết Ngưng trở thành Chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc từ năm 2006 đến nay – điều được xem là một hiện tượng không bình thường của lịch sử văn giới Trung Quốc.
     Vì thế nghiên cứu tiểu thuyết Những người đàn bà tắm của Thiết Ngưng với tư cách là một tác phẩm tiêu biểu của một tác gia tiêu biểu là một sự cần thiết về nền văn học của một quốc gia láng giềng đã và đang có tác động mạnh mẽ đối với xã hội nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Nó có ý nghĩa như là một sự tiếp nối cho dòng chảy của việc nghiên cứu và giảng dạy văn học Trung Quốc từ thời cổ đại cho đến đương đại trong hệ thống trường học Việt Nam, nhất là ở bậc đại học.
   Với nhận thức ấy, tôi đánh giá cao đề tài của bản khóa luận này.
2.Về mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
    Trong phần Lí do chọn đề tài của bản khóa luận ở trang 2 có đoạn viết: “Người viết khóa luận chọn đề tài Những người đàn bà tắm – hành trình tự hủy diệt và tự cứu vớt của người phụ nữ nhằm mục đích làm rõ những nội dung mà những đề tài nghiên cứu trước đây chưa thực hiện được. Với đề tài này, người viết hi vọng sẽ đóng góp một công trình khoa học trong việc nghiên cứu về Thiết Ngưng, giúp sinh viên – học sinh có thêm tài liệu để tham khảo (…) Góp phần giúp cho thế hệ trẻ tiếp thu những tinh hoa văn hóa của thế giới, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình”.
   Đọc đến đoạn này tôi đã nghĩ rằng có lẽ người viết đã không ý thức được sự nghiêm trọng về những điều mình đã viết. Bởi đó là một tham vọng qúa ư to tát mà người viết đã đặt ra ở cấp độ của một khóa luận tốt nghiệp đại học. Viết và đặt ra như thế chẳng khác nào tự mình mua dây để trói mình hay nói cách khác là tự mình làm khó mình. Nếu căn cứ vào mục đích trên thì bản khóa luận đã không đạt và không thể nào thực hiện được.
   Nên chăng chỉ dừng lại ở chỗ như sinh viên thực hiện đã viết sau đây thì thiết thực và vừa tầm hơn: “Nghiên cứu đề tài này giúp chúng tôi bổ sung thêm kiến thức về văn học Trung Quốc và đất nước Trung Quốc. Hơn thế, việc nghiên cứu đề tài cũng giúp cho người viết khóa luận nâng cao kĩ năng nghiên cứu khoa học của mình”.
   Tôi mạn phép đọc phản biện và chấm điểm cho bản khóa luận chỉ khoanh vùng lại ở chỗ mục đích thiết thực và vừa tầm ấy mà bỏ qua những điều to tát ở trên.
   Và nếu xét ở múc đích vừa tầm đó thì từ đầu đến cuối khóa luận, người viết đã thể hiện những gì cần thiết về tác giả Thiết Ngưng trên một tác phẩm tiêu biểu là Những người đàn bà tắm trong cái sự học làm nghiên cứu khoa học của mình.       
3. Các phương pháp nghiên cứu của bản khóa luận là hợp lí. Từ phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,  đối chiếu, phương pháp tiếp cận xã hội, lịch sử đến phương pháp tổng hợp đã được thực hiện tốt. Nhiều trang viết thể hiện được sự phân tích, cảm thụ tác phẩm sâu sắc và có hồn. Có cảm nhận người viết rất yêu thích tác phẩm và hâm mộ tác giả vì thế mà lí giải vấn đề ở nhiều chỗ khá chắc chắn. Đó là một điểm đáng khen của bản khóa luận.   
   Về cơ sở tài liệu thực hiện đề tài: Thực ra mà nói thì Thiết Ngưng dù nổi tiếng ở Trung Quốc nhưng ở Việt Nam vẫn không phải là một tác giả quen thuộc lắm, nhất là trong thời buổi mà văn hóa đọc đang ngày càng bị văn hóa nghe nhìn lấn át và làm cho mờ nhạt như hiện nay. Vì thế mà tư liệu tham khảo về Thiết Ngưng không nhiều. Đó là một sự rủi nhưng cũng chính là điều may cho người viết khóa luận vì không bị lệ thuộc vào những trang viết của các học giả bậc thầy để từ đó có thể đưa ra những suy nghĩ độc lập và hồn nhiên của riêng mình.     Tôi đã lấy làm thích thú ở một số trang viết của khóa luận với những đánh giá, phân tích và tổng hợp mang tính chủ quan như thế.   
4. Nội dung chính của các chương và các kết quả đã đạt được: Với tên đề tài được đặt ra, nội dung chính của bản khóa luận gồm hai luận điểm rõ rệt: hành trình tự hủy diệt và hành trình tự cứu vớt của các nhân vật nữ trong Những người đàn bà tắm.
   Đọc kĩ tác phẩm với con mắt của một người nghiên cứu thì sẽ thấy cách gọi tên cho luận điểm đầu “hành trình tự hủy diệt” là không rõ ràng lắm. Họ, những nhân vật nữ như Chương Vũ, Tiểu Khiêu, Tiểu Phàm, Đường Phi… nếu có gì xấu xa, đồi trụy trong nhân cách và lối sống thì cũng không đến mức là một sự hủy diệt dù có người đã bị chết trẻ vì sống hoang đàng như Đường Phi. Thực tế họ chỉ là nạn nhân của một xã hội hỗn loạn và không giống ai như xã hội Trung Quốc thời cách mạng văn hóa (1966-1976) và cả thời cải cách mở cửa sau này nữa. Những người phụ nữ đó ngay cả khi họ làm điều xấu như ngoại tình, sẵn sàng lên giường với bất cứ ai, giành giật bạn tình của nhau, kể cả cố ý làm chết người… thì cuối cùng họ vẫn là những con người tốt. Ngay cả Đường Phi, dù có lăn lóc trong sự nhơ nhớp, trụy lạc từ tuổi vị thành niên thì người đọc vẫn thấy đó là một cô gái xinh đẹp và thanh sạch. Có chăng chỉ nên xem họ là những phụ nữ bị buộc phải tha hóa để tồn tại,  để được sống theo ý mình hay nói cách khác là họ đã tìm cách để tự giải phóng mình dù những cách đó không hay ho gì.  
   Vì thế cách giải quyết vấn đề của cái gọi là hành trình tự hủy diệt trong khóa luận nhiều chỗ sa vào khiên cưỡng, gượng ép.
   Tuy nhiên, ở cách giải quyết vấn đề hành trình tự cứu vớt của khóa luận lại rất đáng khen. Những phân tích vừa chi tiết vừa rạch ròi về số phận các nhân vật nữ chứng tỏ người viết đã đọc kĩ và nắm bắt nội dung ý nghĩa của tác phẩm rất tốt. Mặt khác đó cũng là những trang viết của một người vừa có cảm xúc chân thành vừa có cảm hứng trong học tập và nghiên cứu văn học. Có lẽ đó mới là điều đáng quí nhất của sinh viên thực hiện khóa luận. Nếu nguồn cảm hứng này được duy trì và nuôi dưỡng, sự học của sinh viên thực hiện còn đi xa hơn nữa.
5. Cấu trúc và hình thức trình bày của khóa luận  hợp lí và có tính chỉnh thể cao. Tuy nhiên ở phần Lịch sử vấn đề đã có chỗ thừa khi người viết đưa nguyên xi một phần tên các tài liệu tham khảo vào mà không có những phân tích, lí giải cần thiết liên quan đến vấn đề mình nghiên cứu.
   Hành văn chặt chẽ, mạch lạc ít lỗi ngữ pháp. Nhưng lỗi dùng từ đôi chỗ sai trầm trọng. Ví dụ: viết là “chủ nghĩa tôn sùng danh nhân” (tr 26, tr 83) trong lúc đáng ra phải viết là tôn sùng cá nhân; trong diễn đạt cũng có những chỗ vụng, ví dụ: “chúng tôi đã đi đào sâu vào việc phân tích các nhân vật…”(tr 95) v.v.   
6. Kết luận và đánh giá:
   Trong phần Đóng góp của khóa luận, ở trang 10, sinh viên thực hiện đã tự nhận xét rằng: “Khóa luận là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc…có những đóng góp cụ thể” và “Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp tư liệu tham khảo cho sinh viên hệ đại học, cao đẳng chuyên ngành ngữ văn trong việc học tập bộ môn Văn học đương đại Trung Quốc”.  Đó là một sự thiếu khiêm tốn và tự mãn dù vô tình hay cố ý.  Lại thêm một lần nữa người thực hiện khóa luận không ý thức được ý nghĩa của câu chữ mà mình đã viết ra. Ông cha ta đã dạy bút sa thì gà chết. Bản khóa luận có thể chết vì những câu chữ như vậy. 
   Tuy nhiên, người phản biện khóa luận này không viết lời đánh giá như thế mà chỉ và vẫn kết luận rằng, bản khóa luận tốt nghiệp đã được hoàn thành ở mức độ tốt, đề nghị xếp loại giỏi.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 6 năm 2013

  

Sau nước mắt là nụ cười

                                         
Xem thêm: http://www.sachhay.org/sach/ChiTiet/6821/nhung-nguoi-dan-ba-tam
     

3 tháng 6, 2013

"Làm được buổi chiều rất giống ban mai"

              Chử Anh Đào
                                                                                                                                                                   
          Quan hệ Cõi thiêng- Đời thường thấm đẫm chất nhân văn là một trong những phẩm chất của tâm hồn Việt. Những năm cuối thế kỉ trước, Chế Lan Viên đã từng nhận xét:
                   Ta không quen cau vầng trán siêu hình
                   Sự sống bình thường ùa cả vào chỗ thâm nghiêm
                   Nơi thờ cúng cũng không quên cuộc đời có thật
                   Thần thánh nghe cả con nghé con trên gỗ cũng đang cười…
          Theo một mạch cảm xúc như vậy, Thi Hoàng viết bài: “ Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”:
                   Ông từ giữ đền ơi xin ông đấy
                   Chấp với bọn trẻ ranh rửng mỡ làm gì
                   Thế là ông cười rồi ông nhỉ
                   Cho chúng nó chơi đừng đuổi chúng đi

                   Này thằng Tâm con nhà bố Tầm
                   Trước cửa đền xin đừng giồng cây chuối
                   Lại còn hét như giặc cái
                   Con bé cái Nhân con bà Nhẫn kia

                   Những mắt cười vê tít lại cứ như sợi chỉ
                   Gạch sân đền ấm lên ửng má
                   Tiếng trẻ con non màu lá mạ
                   Vệt mồ hôi tươi mướt quệt ngang mày

                   Thật tuyệt vời thằng cháu ông Dương
                   Ngón tay cái rất to cho được vào lỗ mũi
                   Ra đây nhảy dây ra đây trốn đuổi
                   Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn

                   Hoa mẫu đơn cũng tưng bừng í ới
                   Khói hương bài thơm tỉ tê lân la
                   Cây vun tán lên vun xôi đóng oản
                   Gió liu riu cho thấm tháp chan hòa

                   Chợt ngẫm thấy trẻ em là giỏi nhất
                   Làm được buổi chiều rất giống ban mai
                   Thánh cũng hân hoan…đố ai biết được
                   Ngài ở trong kia hay ở ngoài này.
          Nhớ tới Thi Hoàng- nhà thơ đất Cảng, người ta nhớ những câu thơ tài hoa và minh triết của Ông. Chẳng hạn:
          - Trời cứ xanh như rút ruột mà xanh
          Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc
          - Một đầu đường chẳng có ai trông ngóng
            Một buổi chiều không biết cất vào đâu
          - Hoa sen không định thơm
            Không định thơm thì mới thơm như thế
          - Chỉ biết đây là rừng xanh thành thực
            Vỗ về xanh rồi lại nỉ non xanh
          Thi Hoàng là người rất nghiêm khắc với quá trình lao động sáng tạo của bản thân. Tôi nghĩ nhiều người làm thơ hiện nay nên soi mình vào câu thơ sau đây của Ông:
          Đem đốt bài thơ đi cho nước non đứng đắn
          Cho trăng đàng hoàng thanh sạch sáng nghiêm minh.
 Cũng như nhiều người viết khác, Thi Hoàng cũng dành một phần sáng tác của mình cho đề tài con trẻ mà bài thơ vừa dẫn ở trên là một ví dụ.
          Bài thơ mở ra không gian : trước cửa đền; thời gian: buổi chiều với các nhân vật là tác giả, ông từ ( người giữ đền), thần thánh, thiên nhiên và lũ trẻ, trong đó lũ trẻ là nhân vật trung tâm.
          Lũ trẻ trong bài thơ là những đứa trẻ nông thôn. Tên chúng được gọi kèm theo tên bố mẹ, ông bà: thằng Tâm con bố Tầm, cái Nhân con bà Nhẫn, thằng cháu ông Dương…Chúng chơi, chạy nhảy, la hét rất “ nông thôn”: trồng cây chuối, ngoáy mũi, nhảy dây, trốn tìm…Và cái cách tác giả so sánh chúng với các sản vật cũng rất…nông nghiệp: “ Tiếng trẻ con non màu lá mạ”, “ Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn”
          Tác giả đã dành hết tình thương yêu trìu mến với lũ trẻ. Mở đầu là lời xin phép của nhà thơ với người thủ đền. “ Thế là ông cười rồi ông nhỉ”. Câu thơ vừa nghe có mùi nịnh nọt, lấy lòng, vừa như tín hiệu “ đèn xanh” cho cuộc chơi của lũ trẻ. Ông- nhà thơ đồng tình, cổ vũ, động viên và nức nở khen những trò chơi của chúng. Điều mà người lớn không làm được mà thằng cháu ông Dương làm được là đút ngón tay cái vào lỗ mũi. Thật tuyệt vời!
          Trong con mắt nhà thơ, thiên nhiên cũng trở thành nhân vật. Thi Hoàng đã nhân hóa chúng để chúng trở nên đồng cảm, hòa mình với chúng bạn- con người để hiệu quả cuộc chơi nâng lên tầm ý nghĩa mới: “ Gạch sân đền ấm lên ửng má”, hoa thì “ tưng bừng í ới”, khói hương “ thơm tỉ tê lân la”, cây “ vun xôi đóng oản”, gió “ thấm tháp chan hòa”…
          Từ cuộc chơi như ngẫu nhiên của bầy con trẻ mà nhà thơ bất ngờ “ chợt ngẫm” ra điều hệ trọng, một triết lí: Ấy là khi sự sống sắp kết thúc ( buổi chiều) thì sự sống lại tái sinh từ con trẻ ( ban mai). Những “hạt mẩy”, những “ lá mạ” non sẽ hứa hẹn những mùa vàng bội thu trong tương lai. Và tôi nhìn thấy “ Thánh”- những bậc tài cao đức trọng, có công với dân với nước, được nhân dân ghi ơn thờ phụng đang đứng cạnh nhà thơ, lặng lẽ mỉm cười.

                        PK . Sau ngày tết thiếu nhi.13
                                             C.A.Đ



22 tháng 5, 2013

Họp lớp đại học 1


THƯ GỬI CÁC BẠN 16D – K2 – ĐHSP VINH

Các bạn 16D thân yêu!

34 năm đã trôi qua, kể từ ngày chúng ta chia tay, rời ngôi nhà Đại học Sư phạm Vinh đi khắp mọi nẻo đường mưu sinh, lập nghiệp...Những cô cậu sinh viên ngày nào giờ phần lớn đã thành những ông, những bà với mái tóc lẫn màu gió sương của hơn 30 năm xuôi ngược. Có lẽ nào thời gian nghiệt ngã sẽ phủ lớp bụi mờ che lấp một thời tuổi trẻ của chúng ta? Trở về đây! hãy trở về đây nơi mái tranh nghèo xưa chúng ta đã sống những ngày tuyệt đẹp.
          Như một lẽ tự nhiên, chúng ta đã có nhiều khi nhớ về nhau da diết. Nhiều năm trôi qua, vì miếng cơm manh áo, vì xa cách, vì không có phương tiện, vì nhiều lẽ lắm...chúng ta chưa được một lần về lại, quần tụ bên nhau, sống với kỉ niệm xưa, hiểu nhau thật sự sau hơn nửa đời người đi qua.
Không thể chờ lâu hơn nữa, chúng tôi – những người rất nhớ các bạn – muốn đón các bạn của lớp 16D thân yêu chúng ta trở về mái trường xưa để được vui cười hờn giận... như ngày nào chung lớp.


Nhân dịp này, Ban tổ chức cuộc gặp cũng thân mời và mong muốn được đón tiếp các cô dâu chú rể của lớp 16D. Sự có mặt của các bạn sẽ làm cho cuộc hội ngộ của chúng ta thêm phần phong phú và ý nghĩa. 
                                                *
                                            *      *
Thay mặt ban liên lạc (tự phong) chúng tôi xin gửi tới các bạn cựu sinh viên của lớp 16D-K2-ĐHSP Vinh thông báo sau (Thông báo số 1, nghĩa là sẽ còn có các thông báo số 2, số 3…):
1/ Chúng ta sẽ tổ chức họp lớp sau 34 năm ra trường vào dịp hè năm nay – 2013
+ Thời gian: ấn định vào hai ngày thứ bảy và chủ nhật 24 và 25/8/2013;
+ Địa điểm: Vinh (KS Quyết Thành, cạnh trường Đại học Vinh; cụ thể liên hệ với Nguyễn Trung Ngọc, ĐT: 0983856233)
 (Khởi đầu Ngọc-Nga chịu trách nhiệm thuê khách sạn, đón các bạn về sau đó cả lớp sẽ thống nhất một chương trình cụ thể)
2/ Tạm thời phân vùng liên lạc thành 3 nhóm. Mỗi nhóm giao cho một người chịu trách nhiệm tập hợp, thông báo kế hoạch đến từng người.  
      Cụ thể:
Nhóm I - Ngọc phụ trách: Ngọc, Nga, Hào, Dung, Em, Ái, Đào, Lý, Chiến, Đông, Lộc, Quế, Tiến, Quang, Quyền, Sùng, Nhia, Ninh, Bắc, Quốc, Hòa, Đông, Thỏa, Tý.
Nhóm II - Sơn phụ trách: Sơn, Nam, Minh, Thu, Huệ, Luyến, Vũ, Xuân, Thắng, Luyện, Hải, Q.Phú, Tịnh, Đoàn Bình, Lý (con).
Nhóm III - Dậu phụ trách: Dậu, Cao Phú, Khôi, Lan, Ca, Hân.
Nhờ các bạn phát hiện xem còn sót ai báo ngay cho Ngọc, Sơn, Dậu biết; bạn nào biết ĐT hoặc email của ai cũng xin báo giúp cho ban liên lạc:
Ngọc: 0983856233; email: trungngocdhv@yahoo.com.vn
3/Dự kiến chương trình:
 + Từ chiều 23/8 đón các bạn từ các nơi về Vinh (liên hệ với Ngọc – Nga để nghỉ tại khách sạn Quyết Thành cạnh trường)
 + Ngày 24/8:
-         Ăn sáng tại khách sạn
-         Buổi sáng: giao lưu – gặp mặt toàn lớp tại hội trường KS
-         Liên hoan (trưa) tại nhà hàng I (Đồng đội)
-         Buổi chiều: Tùy nghi đi chơi, thăm hỏi theo nhu cầu từng người, từng nhóm
-         Ăn tối tại nhà hàng II (Việt Đức)
-         Buổi tối: vui văn nghệ tập thể + cà phê (tầng 7 KS) hoặc tùy nghi lang thang thành phố theo nhóm.
+ Ngày 25/8:
-         Ăn sáng đặc sản Vinh (cháo lươn)
-         Buổi sáng: du lịch một nơi tùy chọn ở Nghệ An hoặc Hà Tĩnh; ví dụ: Đồng Lộc, Cửa Lò, quê Bác... (Đi bằng xe ca chung cả lớp)
-         Ăn trưa tại khách sạn – nghỉ trưa – chia tay.
4/Dự tính tài chính:
-         Kêu gọi sự ủng hộ của các bạn có điều kiện.
-         Mức đóng góp tối thiểu: 1,5 triệu/người (tuy nhiên với những bạn khó khăn trước mắt cứ tự túc tiền về để họp mặt là vui lắm rồi không phải bận tâm).
-         Tùy tình hình cụ thể chúng ta sẽ chi tiêu một cách hợp lí nhất và tạo điều kiện tốt nhất để những bạn khó khăn có thể về sum họp.
Nhận được thư này rất mong các bạn:
+  Sớm gọi về cho chúng tôi theo các số ĐT đã ghi trên để tiện sắp xếp, bố trí (thuê KS, xe cộ...)
+ Góp ý về chương trình, kế hoạch...để chúng ta có một cuộc gặp mặt thành công nhất.
                                     
  Thay mặt BLL
                                                  Thân
                                                   Nguyễn Trung Ngọc

Hinh-lop-16D
       Lớp 16D-K2 trong chuyến thực tế tại Huế 1977 (Ảnh từ nguyenduyxuan.net)

 

19 tháng 5, 2013

Những người đàn bà tắm



Vào năm 2000, văn đàn đương đại Trung Quốc xuất hiện một cuốn tiểu thuyết với cái tên gợi dục Những người đàn bà tắm (Nguyên văn: Đại dục nữ) của nữ văn sĩ Thiết Ngưng, người mà chỉ sau đó 6 năm đã trở thành Chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc.
Cuốn tiểu thuyết ngay lập tức trở thành nổi tiếng ở Trung quốc và thế giới. Chỉ sau đó chưa đầy năm, Những người đàn bà tắm đã được dịch và xuất bản ở hàng chục nước khác nhau trên thế giới, cứ như là lại có một AQ chính truyện của Lỗ Tấn vừa tái sinh vậy(*).  

( … Phi chỉ tay lên miệng mình và nói, có thể Khiêu không tin, tớ qua tay rất nhiều thằng đàn ông, nhưng không một ai được đụng đến miệng tớ, tớ không cho chúng đụng đến… Khiêu, đến đây, đằng ấy đến đây, nghe tớ nói : miệng tớ sạch sẽ, đó là phần duy nhất còn lại. Cho tớ hôn đằng ấy đi, cho tớ hôn nào !

Đường Phi cố gắng chống người lên ôm lấy Khiêu, hôn lên má bên trái Khiêu bằng cặp môi tái nhợt và giá lạnh…)


Cái hấp dẫn của Những người đàn bà tắm ở chỗ tác giả đã dựng lại một cách sống động và chân thực bối cảnh của xã hội Trung Quốc từ thời Cách mạng văn hóa cho đến năm cuối cùng của thế kỉ 20 thông qua cuộc đời và số phận của những người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bất hạnh vô biên.  
Nhân vật chính xuyên suốt của Những người đàn bà tắm là Doãn Tiểu Khiêu. Bắt đầu tác phẩm Khiêu mới chỉ là một học trò bé con 12 tuổi mà khôn ranh như người lớn nhưng khi gấp lại trang sách cuối cùng thì cô đã là một phụ nữ độc thân xinh đẹp, có học, có địa vị và chín chắn ở tuổi 34 dù đã lăn lóc qua vài ba mối tình từ thoảng qua đến sâu đậm, từ có lí đến vô lí. Tiểu Khiêu cùng cô em gái Tiểu Phàm và những người bạn gái thân thiết như Đường Phi, Do Do đã làm nên một tuyến nhân vật đầy cá tính, gai góc nhưng rất nữ tính. Cũng chính họ với những chặng đường đời phức tạp đã làm nên sự hấp dẫn từ đầu đến cuối truyện, đem đến cho độc giả một sự ham muốn khám phá tác phẩm.
Đọc Những người đàn bà tắm, độc giả sẽ có cơ hội để trải qua những trang sách miêu tả một cách kinh hoàng về một thời kì đen tối hãi hùng được những người cộng sản Trung Quốc bấy giờ do Mao Trạch Đông đứng đầu và khởi xướng gọi là cách mạng văn hóa. Một kiểu cộng sản mà như một thứ quái thai của nhân loại khiến loài người không chỉ căm thù mà còn thấy vô cùng khủng khiếp. Bạn sẽ có cảm giác khó mà chịu nổi như trái tim mình bị một bàn tay sắt vô hình bóp nghẹt khi đọc những trang sách miêu tả cảnh đấu tố cô giáo Đường Tân Tân của những kẻ hồng vệ binh nhân danh cách mạng, bắt một phụ nữ trí thức trẻ đẹp phải ăn phân vì đã trót không chồng mà có con và còn vì đã yêu quí con mèo cô nuôi như yêu quí một con người và vì thế mà bị kết tội đi theo tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản; đến mức cô phải tự tử để thoát kiếp người nhục nhã.
Có lẽ cũng vì thế mà người con gái Đường Phi của cô sau này lớn lên trong hình hài xinh đẹp căng tròn sức sống và dục vọng của một thiếu nữ nhưng đã sống như một nhân vật nổi loạn. Cô sẵn sàng lên giường với bất kì một kẻ đàn ông háo sắc nào như một sự trả thù đời, như là một sự hạ nhục cuộc đời và xã hội. Nhưng đằng sau cuộc đời có vẻ như nhơ nhớp dơ dáy đó, Đường Phi trước sau vẫn là một tâm hồn cao thượng, thanh sạch không chỉ đáng thương mà còn đáng kính trọng. Đó là một nhân vật không đặc biệt và cũng không lạ lùng của Những người đàn bà tắm.
Điều đáng nói là trong xã hội hiện đại của Trung Quốc và thế giới ngày nay, những cô gái như Đường Phi không phải là của hiếm. Chúng ta có thể bắt gặp họ trên mỗi góc phố từ Bắc Kinh qua New York cho đến Hà Nội, Sài Gòn.
Nhân vật đặc biệt của Những người đàn bà tắm thuộc về cô gái mang tên Tiểu Khiêu. Người phụ nữ trí thức này là cả một khối phức tạp của hàng triệu người phụ nữ khác dồn nén lại. Sự nghiệp của Khiêu có được từ một lần người bạn thân xinh đẹp là Đường Phi lên giường đổi tình lấy việc làm cho bạn với ông phó thị trưởng thành phố. Nhờ đó mà Khiêu đi từ một chân biên tập viên lên trưởng phòng rồi lên phó giám đốc của Nhà xuất bản Nhi đồng.
Là một người có tài, Khiêu xứng đáng được như thế. Vấn đề nhức nhối là ở chỗ trong một xã hội gọi là XHCN như Trung Quốc, những người như Khiêu nếu không có sự trả giá thì khó mà có được một chỗ đứng xứng đáng với năng lực và phẩm giá của mình. Một sự phê phán không phải là ngầm ý mà là đầy tính phản kháng mạnh mẽ của tác giả Thiết Ngưng. Cuộc cách mạng văn hóa kéo dài suốt 10 năm (1966-1976) đã đi qua nhưng những gì đáng khinh bỉ của thể chế xã hội thì vẫn ở lại.
Điều đọng lại qua những trang sách của Những người đàn bà tắm là ở những câu chuyện tình yêu thấm đẫm nhục dục của các nhân vật nữ đã kể tên ở trên. Đó là những câu chuyện tình vừa ngang trái cũng vừa như là một sự tất yếu. Tất cả họ đến với tình yêu và tình dục như một sự giải thoát không chỉ cho thể xác mà lớn lao hơn, cho cả tâm hồn.
Mở đầu là câu chuyện ngoại tình say đắm của mẹ Tiểu Khiêu là Chương Vũ với người cậu của Đường Phi là bác sĩ Đường. Rồi cô em gái của Tiểu Khiêu là Tiểu Phàm dù đã sang Mĩ định cư, lấy chồng Mĩ, nhập quốc tịch Mĩ và dù rất yêu thương người chị ruột của mình nhưng cô vẫn dễ dàng bộc lộ sự ghen ghét, đố kị với Khiêu, thậm chí là không dưới một lần tìm cách giật người yêu của chị gái vì nhận ra một sự thực cay đắng rằng dù mình đã thực hiện được giấc mơ Mĩ nhưng hạnh phúc vẫn là một thứ mơ về nơi xa lắm.
Dù vậy, ngòi bút của tác giả cũng như con mắt nhìn của bạn đọc vẫn không thấy Tiểu Phàm là đáng ghét, đáng phải lên án. Bởi suy cho cùng đó cũng chỉ là thói nữ nhi thường tình. Nếu không phải là một cây bút nữ như Thiết Ngưng thì khó mà xây dựng được một nhân vật rất khó hiểu với đàn ông như vậy.
Nhưng điều khiến ban đọc đau đầu lại là ở những câu chuyện tình của Tiểu Khiêu.  Đầu tiên cô đem lòng ngưỡng mộ rồi yêu anh chàng đạo diễn tài hoa đã có vợ là Phương Kăng. Cô tự mình đến với Phương Kăng, xin được hôn nụ hôn đầu với Phương Kăng nhưng nhất quyết không lên giường với Phương Kăng. Cuộc tình ngang trái phi logic ấy rồi cũng chấm dứt.  Khiêu đến với chàng kiến trúc sư tài ba là Trần Tại. Trần Tại rất yêu và ngưỡng mộ sắc đẹp của Khiêu, chỉ mong nghe một lời yêu từ Khiêu, nhưng Khiêu đã không nói ra cái từ yêu cần phải có đó, buộc lòng anh phải đi lấy vợ là Vạn Mỹ Thìn, một cô gái có tâm hồn cao thượng và một trái tim yêu say đắm. Phải đến lúc đó Khiêu mới bộc lộ lòng yêu của mình với Trần Tại. Cô tìm cách gần gũi anh, lên giường liên tục và mãnh liệt với anh để cướp lại anh từ tay Vạn Mỹ Thìn.  Rốt cuộc thì cuộc li hôn giữa Trần Tại với Mỹ Thìn sau mười năm chung sống cũng xảy ra để Trần Tại hoàn toàn thuộc về Khiêu. Câu chuyện tưởng như đã có một cái kết có hậu cho mối tình Khiêu với Trần Tại thì bất ngờ ngay lúc đó, sau một pha làm tình say đắm, Khiêu đã khuyên Trần Tại trở lai với Vạn Mỹ Thìn. Trần Tại ngỡ ngàng. Độc giả cũng ngỡ ngàng. Chỉ có ngòi bút của tác giả là không ngỡ ngàng, bởi đằng sau nhân vật Khiêu là hình bóng của tác giả Thiết Ngưng.
Chuyện tình của Tiểu Khiêu không chỉ có thế. Cô đã từng có lần bay nửa vòng trái đất qua tận nước Mĩ xa xôi và lạ lẫm để đến với anh chàng người Mĩ tên là Mark cũng vô cùng ngưỡng mộ và yêu cô. Họ đã trao nhau những nụ hôn dài bất tận nhưng khi Mark muốn đi đến tận cùng sự yêu với cô thì Khiêu đã thẳng thừng từ chối. Thật là không hiểu nổi. Cứ tưởng logic của câu chuyện đã phải tất yếu như 1+1=2 vậy mà rốt cục, 1+1 cũng chỉ bằng 1.
Trong Lời tựa cho bản tiếng Việt tái bản 2006, Thiết Ngưng viết:

 "…tôi không hi vọng với Những người đàn bà tắm tôi đã trả xong món nợ thế kỉ, nhưng lại thiển nghĩ, hoặc giả xen giữa những dòng chữ cũng có những từ ngữ như "kiểm điểm", "truy hỏi", "chất vấn", "cứu chuộc". Tôi thử với tinh thần dũng cảm để kiên nhẫn nhìn lại và thận trọng xem xét những âu lo và khổ đau của một nhóm linh hồn giữa những năm tháng đặc biệt ấy ở Trung Quốc, đồng thời mong rằng trong sự nhìn nhận và xem xét, tâm linh tan vỡ lại được lắng trong và hoàn chỉnh hơn trái tim tan vỡ? Những suy nghĩ trên có thể là một trong những thái độ chân thật của một nhà văn ở cuối thế kỉ, cùng với văn học đối diện trước thế kỉ mới." 
     Bởi vậy mà đọc xong Những người đàn bà tắm, người viết bài này cho rằng với nhân vật Doãn Tiểu Khiêu, tác giả Thiết Ngưng đã bỏ ra nhiều công sức để xây dựng nên một nhân vật lí tưởng của riêng mình nhưng không phải là một hình tượng văn học điển hình của tác phẩm, cho dù nhân vật này là linh hồn của Những người đàn bà tắm.



Nhà văn Thiết Ngưng
Sinh năm 1957 là  Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc tnăm 2006, và ủy viên dự khuyết Trung ương ĐCS  TQ; Bà là Chủ tịch Hội thứ ba trong lịch sử Hội Nhà văn Trung Quốc kể từ khi thành lập vào năm 1949, sau Mao Thuẫn và Ba Kim.

Tác phẩm chính:

Cửa hoa hồng (tiểu thuyết)

Thành phố không mưa (Tiểu thuyết)
Những người đàn bà tắm (Tiểu thuyết)
Tuyển tập Thiết Ngưng (5 tập)
Tuyển tập tác phẩm tự chọn (4 tập)
Tuyển tập truyện (2 tập)
Tuyển tập 50 nhà văn hàng đầu Trung Quốc – (tập Thiết Ngưng)
Tuyển tập tác giả đương đại Trung Quốc – (tập Thiết Nhưng)
Ngoài ra, các nhà xuất bản ở Trung Quốc lần lượt cho in của Thiết Ngưng 29 tập truyện ngắn, truỵện vừa và 16 tập tuỳ bút, tản văn, nhật kí (Theo thống kê đến tháng 4.2003).


(*)  Dịch giả Sơn Lê, xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam vào tháng 3-2003 với tên Khát vọng thời con gái, tái bản lần thứ hai với tên Những người đàn bà tắm năm 2006.