(Đọc tập thơ Về Ban Mê đi anh của Nguyễn Duy Xuân, NXB Văn hóa dân tộc, 2021)
Rừng xa vọng
một tiếng hời
Người như lạc
giữa một thời xa xăm
Người đi...
lòng dạ bâng khuâng
Hồn nương
theo điệu chiêng cồng vang ngân
Đó là những câu thơ như một lời đề tựa cho tập thơ Về
Ban Mê đi anh vừa mới ra lò của tác giả Nguyễn Duy Xuân, một cây bút quen thuộc
của Đắc Lắk.
Là người con của đất Nam Đàn, Nghệ An nhưng số phận
cuộc đời đưa đẩy, ngày tốt nghiệp đại học từ năm 1979, Nguyễn Duy Xuân mang ba
lô vào Đắc Lắk hành nghề dạy học và cho đến nay, anh đã có đến 42 năm gắn bó
với vùng cao nguyên đất đỏ này. 42 năm trong cuộc đời một con người là quá dài,
có thể xem là quá nửa đời người và quá đủ để để anh hiểu biết, nhận thức một cách
đầy đủ nhất về vùng đất mà anh đang sống. Đó là một xứ sở đất đỏ bazan với
những đồn điền cà phê mỏi cánh chim bay, những triền hoa dã quỳ đẹp đến nao
lòng, những rừng nguyên sinh giàu có và lắm thác nhiều hồ. Tất cả cứ thế ngày
lại ngày ngấm vào cuộc sống Nguyễn Duy Xuân và tạo nên cảm hứng thơ ca cho một
giáo viên văn học. Ngoài công tác giảng dạy, Nguyễn Duy Xuân còn say mê viết
báo, làm thơ, viết tản văn. Và ở lĩnh vực nào anh cũng gặt hái được những thành
công đáng kể. Ngoài những tác phẩm in chung, đến nay, Nguyễn Duy Xuân đã có ba
tập thơ in riêng: Giọt nắng cao nguyên (2013), Tổ quốc là con đường bố con mình
đang đi (2016) và Về Ban Mê đi anh. Tập thơ thứ ba của anh gồm 48 bài là những
cảm xúc như tiếng lòng của Nguyễn Duy Xuân được chính tay anh chọn lọc trong
khoảng mười năm trở lại đây.
Đong đếm như thế để thấy thực ra Nguyễn Duy Xuân làm
thơ không nhiều nhưng những lúc ở vào thời điểm mà cảm xúc dâng trào, anh đều
có thơ để lại như một dấu ấn kỷ niệm của cuộc đời.
Sống ở Đắk Lắk hơn 40 năm, Nguyễn Duy Xuân hầu như đã
đi hết những vùng đất của xứ sở này. Vì thế mà những ngọn núi, dòng sông, con
thác, cây cầu... đều hiện diện trong thơ anh. Đọc Về Ban Mê đi anh bạn đọc thấy
tần suất xuất hiện của những địa danh, tên gọi nổi tiếng của Đắk Lắk khá dày
đặc với những Krông Nô, Krông Năng, Dray Sáp, Ea H’Leo, Buk So... Điều đó khiến
bạn đọc ở xa lấy làm hấp dẫn và tò mò muốn được một lần lên với Tây Nguyên.
Đến Đray Sáp nơi dòng thác mù sương nổi tiếng, Nguyễn
Duy Xuân đã lột tả được sự hùng vĩ của nó chỉ qua mấy câu thơ:
Âm vang rừng
núi
Trắng xóa
chân trời
Đray Sáp
Dòng thác
ngày đêm cuộn chảy.
(Thác Đray Sáp)
Những câu thơ trên làm ta liên tưởng đến bài thơ nổi
tiếng Vọng Lư Sơn bộc bố (Xa ngắm
thác Lư Sơn) của Lý Bạch: Nước bay thẳng
xuống ba nghìn mét / Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Với lối cảm xúc giàu tính hình tượng ấy, khi đến Đắk
Buk So, một xã trung tâm của huyện Tuy Đức và cũng là nơi có dòng thác Buk So
trắng màu sương khói, Nguyễn Duy Xuân đã có như câu thơ tha thiết về một địa
danh nằm giữa chốn rừng sâu:
Đắk Buk So ở
giữa rừng
Không đi
không biết, không đừng phải đi...
Thác Buk So
trắng mặt duềnh
Nét xưa hoang
dã bồng bềnh khói sương...
Và anh đã bật
ra những câu lục bát trữ tình rất sở trường:
Ai về ai có
nhớ không
Câu thơ còn
đó, rượu nồng đợi ai
(Đắk Buk So)
Những câu thơ thật là trữ tình và cũng thật là lãng
mạn.
Nói đến Đăk Lăk là nói đến cà phê với hương thơm nồng
nàn từ hoa đến trái và sự quyến rũ say đắm lòng người của vị đắng trong li cà
phê Ban Mê, khiến ai đã một lần nhấp môi là nhớ mãi. Sống giữa khí trời cà phê
Ban Mê, Nguyễn Duy Xuân không chỉ hiểu vị thơm ngon của cà phê mà anh còn thấy
được cội nguồn đã tạo nên vị thơm ngon của thứ đặc sản này. Đó là sự kết tinh
từ đất, từ nắng, từ mưa, từ bàn tay người chăm bón:
Chắt chiu từ
đất cay nồng
Hương thơm,
vị đắng quyện trong hoa này
Nắng mưa ấp ủ
tháng ngày
(Hương cà phê Ban Mê)
Còn đây là hình ảnh những bông hoa cà phê đã được tác
giả nhân cách hóa chỉ có ở Tây Nguyên để từ đó trở thành một hình tượng văn học:
Tháng ba
Cà phê vươn
mình
Thức dậy
Xõa tóc trắng
trời
(Tháng ba Tây Nguyên)
Chính hương vị độc đáo của cà phê Ban Mê đã làm nên
nét đặc sắt của xứ sở cao nguyên để níu được chân người:
Ban Mê xa đấy
mà gần
Cà phê vị
đắng níu chân người về
(Hương cà phê Ban Mê)
Đọc Về Ban Mê đi anh thấy thơ Nguyễn Duy Xuân có cấu
tứ giản dị, trong sáng. Anh không thuộc trường phái rắc rối hóa từ ngữ khi sử
dụng câu chữ. Nhiều cây bút trẻ khi làm thơ muốn tạo nên sự khác biệt ở sự phức
tạp khi gieo vần và luyến láy chữ nghĩa. Nguyễn Duy Xuân không thế. Ngay cả khi
ngoái nhìn lại chặng đường ba mươi năm chung thủy với Tây Nguyên như một sự
tổng kết phần đời đã đi qua, anh vẫn rất chất phác trong thể hiện tâm tình với
vùng đất đầy nắng và gió và không ít sự khắc nghiệt:
Đất bazan níu
chặt đời tôi
Cho tôi hạnh
phúc cuộc đời
Đất cao
nguyên lồng lộng khí trời
Cho tôi khát
vọng làm người tự do
(Ban Mê ngày ấy)
Đó chính là sự biết ơn và tri ân của Nguyễn Duy Xuân
với vùng đất Tây Nguyên đã cho anh một cuộc sống hạnh phúc và mãn nguyện. Một
vùng đất mà không phải ai cũng bám trụ được và tìm thấy tình yêu cuộc đời trong
đó như Nguyễn Duy Xuân:
Bây giờ tóc
đã điểm sương
Càng sâu thêm
nỗi vấn vương đất này
Đến đây thì ở
lại đây
Vượt lên gian
khó mà xây cuộc đời.
(Ba mươi năm ấy - Bây giờ)
Có lẽ đó là những lời gan ruột được viết bằng thơ rất
bộc bạch của Nguyễn Duy Xuân sau tròn 30 năm và bây giờ là sau 42 năm anh bám
trụ và đứng vững để sống và viết giữa Tây Nguyên.
Ít người biết Nguyễn Duy Xuân là con người củ mỉ cù
mì, anh sống kiểu của những người năng nhặt chặt bị như con ong cần cù hút nhụy
phấn hoa làm mật cho đời, như con kiến cần cù xây tổ ấm. Ở Nguyễn Duy Xuân ít
có sự ồn ào khoa trương lập ngôn nhưng lại luôn âm thầm suy ngẫm về cuộc sống,
luôn quan hoài đến chính sự và thơ ca, nhiều khi anh thấy tiếc và đau đớn cho
sự biến mất của những cảnh đẹp núi rừng do bàn tay tàn phá của con người. Vẻ
đẹp của thiên nhiên chính là vẻ đẹp của tự nhiên. Và vẻ đẹp đó cần được bảo tồn
nuôi dưỡng chứ không phải là một sự can thiệp, khai thác kinh tế trắng trợn.
Thơ Nguyễn Duy Xuân đã có những câu đau đớn, nuối tiếc cho sự mất mát vì tàn
phá đó:
Bến Serepốk
Nước sục đỏ
ngầu
Bóng dáng đại
ngàn
Còn đâu?
Trong cổ tích?...
Anh xót xa
khi thấy cảnh:
Những chú voi
Đầm mình vượt
sông
Lằn lưng
Cõng khách...
(Tháng ba Tây Nguyên)
Đó là những suy nghĩ tích cực mang tính trữ tình công
dân rất đáng quý trong thơ Nguyễn Duy Xuân. Chính vì thế mà khi có dịp đến Đray
Nur, một con thác nổi tiếng về sự hùng vĩ và vẻ đẹp hoang sơ cách TP Buôn Ma
Thuột 25km, anh đã lặng nhìn thác đổ để nghĩ về quá khứ với giai thoại về một
tình yêu nhuốm màu bi ai:
chuyện ngày
xưa đã thành cổ tích
còn đây dòng
thác
mãi ngàn năm
hát khúc đại ngàn
(Đray Nur)
Cứ thế, tình yêu của Nguyễn Duy Xuân với Tây Nguyên
nhiều khi chỉ là là một con đường mòn ngoằn ngoèo vắt qua sườn núi hoặc là một
nét chỉ thêu hoa văn sặc sỡ trên váy người thiếu nữ Ê đê. Cũng vì thế mà có khi
chỉ cần một vệt nắng, một chùm hoa cũng khiến cả thành phố Buôn Ma Thuột sáng
bừng trong thơ anh:
Muôn vàn ngôi
nhà tỏa nắng
Thành phố nở
trắng
Những chùm
hoa
(Buôn Ma Thuột sáng nay)
Được sống và viết giữa thủ phủ cà phê cao nguyên, ngòi
bút của Nguyễn Duy Xuân trở nên nồng đậm chất liệu trữ tình. Những câu thơ anh
viết về thành phố Buôn Ma Thuột cứ da diết như một lời mời gọi thiết tha bạn bè
về với nơi anh đang sống khi màu hoa cà phê đang nở trắng trời và những cô gái
Ê đê căng đầy nhựa sống:
Anh hãy về
Buôn Mê Thuột quê em
Thành phố cao
nguyên tuổi còn trẻ lắm...
...Về quê em
nghe giai điệu cồng chiêng
Vọng buôn xa
chiều Ban Mê nắng đỏ
Hoa cà phê
bung trắng trời trong gió
Tỏa hương
thơm ngan ngát phố phường
(Về Ban Mê đi anh)
42 năm sống và viết, hơn 60 năm cuộc đời đã đi qua là
cả một chặng đường mà tác giả Về Ban Mê đi anh đã phấn đấu không mệt mỏi để có
được những thành quả mà anh gặt hái hôm nay. Bút lực vẫn dồi dào, tinh thần vẫn
còn nhiều phấn chấn, hi vọng Nguyễn Duy Xuân sẽ tiếp tục cống hiến cho đời
những vần thơ căng tràn nhựa sống, yêu đời và yêu người như những gì chúng ta
đã thấy trong tập thơ mỏng và giản dị này.
HTS
Link XB:
Link XB: https://thanhnien.vn/ban-me-xa-day-ma-gan-post1393794.html?fbclid=IwAR2bFbqtDMCagcysua4VWbe1SemLKUFYviU6xmep5EEhb4Xwb2WQKNG_PJQ
Trả lờiXóa