19 tháng 4, 2019

Trời. Chu Văn Sơn đã đi rồi


Vào một buổi tối, tôi đang lướt mạng đọc linh tinh bỗng thấy có tin nhắn qua facebook của Chu Văn Sơn. Sơn gửi cho tôi một bức kí họa anh vẽ về một cây bàng đã trút sạch lá, hỏi tôi: Anh HTS có biết cây bàng này em vẽ ở đâu không. Tôi đoán ra ngay: Ở góc nhà trống khu tu viện, từ trên lầu 3 nhìn xuống. Chu Sơn bác tài thế, đã mấy chục năm rồi… 
Đó là buổi tối ngày 18/11/2018. Khi chúng tôi ở hai đầu đất nước.
Rồi hai anh em nói chuyện qua lại với nhau về những kỉ niệm ngày chúng tôi còn dạy ở khoa văn ĐHSP Quy Nhơn những năm đầu 1980. Tôi ở Vinh vô, Chu Sơn ở Hà Nội vào. 
Năm 1985 khi vợ tôi sắp sinh con gái đầu thì Chu Sơn có chuyến đi Hà Nội. Vợ tôi gửi mua mấy thứ lặt vặt nhưng tính Sơn chu đáo nên khi về mua còn nhiều hơn cả những thứ đã gửi: Khăn tắm, xà phòng giặt, xà phòng thơm... do Hà Nội sản xuất. Những nhu yếu phẩm hiếm hoi thời bao cấp. Đến nay mỗi khi nhắc đến Chu Sơn vợ tôi vẫn kể lại chuyện đó. 
Khi đã mỗi người một nơi, Sơn ra Hà Nội, tôi vô Sài Gòn, có cơ hội chúng tôi vẫn gặp nhau. Có lần Sơn và Vân Anh cùng vào Sài Gòn dự hội thảo về Văn chương Tự lực văn đoàn, nghe Sơn gọi, tôi và Nguyễn Ngọc Quận cùng chạy xuống một nhà hàng nằm trên đường Nguyễn Trãi quận 5 gặp hai vợ chồng bạn. Chúng tôi đã có một chiều ăn cơm mới nói chuyện cũ và chuyện đời, chuyện nhân tình thế thái.
Sơn dặn khi nào ra Hà Nội, em sẽ đưa anh lên cái trang trại của em chơi, tha hồ uống rượu và nói chuyện văn chương.
Lời hẹn đó chưa thành hiện thực. 
Rồi Sơn đau bệnh hiểm nghèo, nằm viện cả năm nay. Hầu như bạn bè văn chương với nhau những ngày này mỗi lần gặp nhau đều thăm hỏi về bịnh tình và nhắc đến Chu Văn Sơn. Thương Chu Sơn thế. 
Hôm kia tôi ngồi café với Trần Kỳ Trung từ Hội An vô. Trung kể mới ra Hà Nội thăm Chu Văn Sơn. Sơn đang nằm thiêm thiếp trên giường bệnh thế mà khi thấy Trần Kỳ Trung bước vào, như có một sự hồi dương, Chu Sơn bỗng nhận ra Trần Kỳ Trung và kêu to lên: Kỳ Trung. Rồi Sơn nằm vật ra.
Chiều nay bỗng đọc tin Chu Văn Sơn đã ra đi qua dòng thông báo ngắn của Phạm Xuân Nguyên trên facebook:
Nguyen Pham Xuan cùng với Chu Văn Sơn
52 phút •
TIN BUỒN
Nhà giáo, tiến sĩ văn học Chu Văn Sơn, giảng viên khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, đã qua đời lúc 13h40, ngày 18/4/2019, tại Bệnh viện E (Hà Nội), hưởng dương 58 tuổi.
Tang lễ sẽ được thông báo sau.
Đọc xong chỉ biết buông ra một tiếng Trời.
Cầu mong bạn ra đi thanh thản. Chu Sơn ơi.





Trái qua: HTS và Nguyễn Ngọc Quận với vợ chồng Chu Sơn - Vân Anh tại nhà hàng Thanh Trà, Nguyễn Trãi, Q.5. Ngày 25/10/2012.


10 tháng 4, 2019

Trở về từ mặt trận


(Hồi kí viết tiếp)

Nguyễn Trung Ngọc

Năm 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc cuộc chiến dai dẳng giữa hai miền Nam Bắc. Tuyến đường sắt Bắc – Nam nhanh chóng được khôi phục. Những đoàn tàu dài dặc và những đoàn xe quân sự chở đầy ắp bộ đội Giải phóng chạy ngược chiều đi chiến trường năm xưa, ngày nào cũng đầy đường hướng ra phía Bắc. Bạn bè tôi từ mặt trận phía Nam mang những chiếc ba lô to kềnh còn nặng hơn cả thời ra trận. Phía trên chiếc ba lô con cóc nằm ngang một chiếc khung xe đạp lại còn thêm một con búp bê to như em bé thật, có đôi mắt nhấp nháy được mang từ Sài Gòn ra để làm quà cho gia đình. Dọc các tuyến đường sắt, bộ... không khí “ngày trở về” làm rộn rã cả những làng quê, phường phố.
Mùa thu 1975, hầu hết lính sinh viên chúng tôi được Bộ quốc phòng trả về cho các Trường đại học. Hăng hái ngày ra đi nay náo nức trở về từ các mặt trận chúng tôi gặp nhau vui mừng khôn xiết. Dĩ nhiên không thể tránh được những giọt nước mắt rơi xuống. “Chiến tranh đâu phải trò đùa”. Tôi sợ nhất phải trả lời một ai đó chuyện người thân của họ mà mình cũng biết ít nhiều về trường hợp hi sinh. Buồn cho mấy đứa bọn tôi NTN, Hà Tùng Sơn, Nguyễn phong Nam, Nguyễn Hữu Nhia, Nguyễn Minh Khâm, Nguyễn Minh Chính, Lê Sơn, Hoàng Mạnh Truật, Nguyễn Quang Ánh...trở về trường thì cũng đúng lúc khoá 12 của chúng tôi tốt nghiệp ra trường, không còn bóng dáng một bạn cũ nào ở lại nên không có những cái bắt tay, những cái ôm chặt khi gặp nhau sau ba năm chia xa. Nhưng cũng may là như vậy khỏi phải nhìn thấy những giọt nước mắt của bọn con gái sinh viên rơi xuống khi chúng sẽ hỏi vì sao chưa thấy Ngôn, chưa thấy Hiếu...trở về. Cô bạn gái khá thân Lê Khắc Chân Như của tôi mà còn ở đây, đôi mắt đẹp vốn đượm buồn ấy không thấy anh trai mình trở lại thì tránh sao được sẽ nhoà trong nước mắt. Anh Như là Lê Khắc Duy, sinh viên năm thứ 3 cùng nhập ngũ với chúng tôi đã nằm lại chiến trường xa như một ngôi sao xa rụng xuống.
Tôi trở lại trường từ mặt trận phía Tây nên không có con búp bê và cái khung xe đạp như mấy thằng bạn cùng đợt nhập ngũ Hà Tùng Sơn, Lê Quang Phương, Nguyễn Quang Ánh...mà thay vào đó là một thùng lương khô to tướng nằm ngất nghểu trên ba lô do Quân nhu phát cho khi nhận quyết định ra quân. Tôi đi thẳng một mạch từ biên giới phía Tây về Vinh trong niềm hân hoan khôn tả. Ngày đi náo nức chừng nào thì ngày về rạo rực chừng đó. Bỏ bút cầm súng đúng 3 năm 3 tháng nay lại bỏ súng để trở về cầm bút! Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh những cô sinh viên “trẻ măng” khoá 15 sẽ học cùng mình trong những năm tháng tới, tự nhiên tim đập rộn ràng...
Anh bộ đội với bộ quân phục đã bạc, rộng thùng thình bỡ ngỡ khoác ba lô vào trường. (Bọn con gái trong lớp sau này cứ bảo chúng tôi: Các anh mặc quần đũng què). Đó là một vùng đất cát còn bề bộn sau chiến tranh chưa được khoả lấp hết. Những hố bom vẫn còn dấu vết trên mặt đất khá rõ tuy cỏ đã mọc đầy. Dựng lên trên bãi cát pha kề con đường Bắc – Nam xe vẫn lại qua là những cái lán bằng tranh tre san sát, hồi đó người ta vẫn quen gọi là “lán” hơn là “kí túc xá” sinh viên.
Tôi hỏi tìm vào lán sinh viên nam lớp 15AK2 để gặp Khâm bạn cùng lớp 12A nhập ngũ với tôi một ngày nhưng về trước cả tháng nay đã yên vị ở năm thứ 2 để lo chuyện học hành. Việc đầu tiên tôi làm là mở chiếc thùng lương khô đang “nguyên đai” ra chiêu đãi Khâm và tất cả nam sinh trong phòng. Hết đến nửa thùng vì số sinh viên rất đông. Ngay sau đó, dẫn tôi ra bể tắm, thằng bạn đồng ngũ một thời cười nói nhỏ với tôi: “ Chốc nữa mi cất liền thùng lương khô chỗ kín. Về đây mà “thả ga” như thế không giữ nỗi một ngày đâu nhé!” Tôi học được bài học đầu tiên từ “người đi trước” về cuộc sống khu sinh viên những năm cùng kiệt.
Sáng hôm sau, tôi mang hồ sơ lên phòng tổ chức để làm thủ tục về trường thì được ông trưởng phòng Trần Lê Xuân đón tiếp thật niềm nở và giải thích một cách từ tốn, rõ ràng rằng: “Năm thứ 2 (khoá 15) đã vào học quá lâu, anh theo khoá ấy sẽ bị hổng kiến thức. Kể từ hôm nay những người về sau như anh sẽ ở lại năm thứ nhất. Ở lại chứ không phải là lưu ban. Điểm học năm thứ nhất của các anh đã có, sẽ được bảo lưu. Anh vào danh sách khoá 16 là để chờ sang năm học tiếp chương trình từ năm thứ 2 với họ. Anh về đó sinh hoạt bình thường, có thể học dự thính nhưng không phải thi. Bây giờ chỉ còn cách như thế, anh thông cảm với nhà trường”.
Tôi có bị hẫng một chút nhưng rồi cũng nhanh chóng bình tâm lại, nhận giấy giới thiệu từ phòng tổ chức và theo hướng dẫn của họ sang văn phòng Đảng uỷ chuyển sinh hoạt Đảng rồi xuống khoa nhận phân công về lớp. Cầm túi hồ sơ Đảng trong tay tôi thấy bùi ngùi một chút: Mới hôm trước ở đơn vị khi có thông báo trả hết sinh viên nhập ngũ về trường đại học, anh chính trị viên tiểu đoàn gặp tôi:
- Đồng chí thông cảm! Trường hợp đồng chí có vướng mắc một chút. Vì định cử đồng chí đi học sĩ quan nên hồ sơ đã gửi ra trường lục quân hơn tháng trước. Nay nếu đồng chí ra quân, hồ sơ Đảng viên dự bị của đồng chí chúng tôi chưa lấy lại được sẽ khó khăn cho đồng chí khi chuyển chính thức. Hay là đồng chí ở lại đi, quân đội vẫn cần những người như đồng chí phục vụ lâu dài!
Tôi lặng người vì ngán ngẩm. Nếu khoảng vài năm trước có thể tôi đã đồng ý ở lại quân đội vì sợ mất đảng viên. Nhưng lúc này thì khác, tôi suy nghĩ một chút rồi nói rất dứt khoát:
- Báo cáo Chính trị viên! Được ra quân để trở về trường học tiếp theo chủ trương của nhà nước là nguyện vọng của tôi. Tôi không có lỗi gì trong vấn đề hồ sơ kết nạp đảng. Xin phép đơn vị cho tôi được ra quân. Nhược bằng hồ sơ của tôi bị thất lạc, tôi không chuyển chính thức được thì cũng xin cho tôi được về trường.
Nghe tôi nói vậy, ông thủ trưởng tiểu đoàn không thuyết phục nữa mà ôn tồn nói:
-Thôi thì thế này, chúng tôi cứ trao quyết định ra quân cho đồng chí để đồng chí xuất ngũ. Còn hồ sơ kết nạp đảng coi như đơn vị nợ đồng chí. Đồng chí cứ yên tâm về trường rồi chúng tôi sẽ gửi về sau. Được không?
- Vâng! Nhờ thủ trưởng quan tâm.
Nói rồi như sợ người ta lại thay đổi ý kiến, tôi vội cầm quyết định giơ tay chào theo điều lệnh và chạy một mạch về đại đội để chuẩn bị những việc còn lại.
Bây giờ nghĩ lại mới thấy tôi đã có “dớp” xa đảng ngay từ khi chưa thành đảng viên chính thức.
Khi xuống văn phòng khoa, gặp lại nhiều thấy cô cũ tôi có cảm giác như mình trở về nhà sau nhiều năm xa cách. Hôm ấy hình như khoa có cuộc họp gì nên tôi gặp lại các thầy cô rất đông. Thầy Nguyễn Khắc Phi còn nhớ tôi rất rõ. Trước khi nhập ngũ tôi là cán sự môn Văn học Trung Quốc của Thầy ở lớp 12A. (Hồi đó có chức danh “cán sự bộ môn” khá gần gũi với các thầy trực tiếp giảng dạy). Các thầy lớn tuổi như Lê Bá Hán, Nguyễn Nguyên Trứ, Tưởng Đăng Trữ, Nguyễn Trung Hiếu, Đậu Văn Ngọ, Nguyễn Duy Bình, Phan Thiều...bắt tay và hỏi chuyện anh sinh viên cũ đi bộ đội trở về rất thân tình làm tôi càng thấy yêu khoa yêu trường hơn. Đợi giãn chuyện, Thầy Phi kéo tôi vào cái phòng nhỏ của BCN khoa, gọi luôn trợ lí tổ chức khoa (hình như là anh Hoàng Tiến Phào thì phải) vào bảo: Anh xếp anh Ngọc vào lớp Trung văn và bố trí làm lớp phó học tập lớp đó. Thầy Phi lúc đó đang làm Phó chủ nhiệm khoa, trực tiếp phụ trách công tác này.
Có lẽ lại là một định mệnh. Ở lớp 16D tôi về có một cô sinh viên gầy nhỏ như mảnh trăng đầu tháng cũng mới từ Hà Nội chuyển vào. Cô đậu đi nước ngoài, là lưu học sinh đi Nga đang học tiếng ở Đại học Ngoại ngữ thì xin Bộ cho chuyển về Vinh vì “thích ĐHSP Vinh và muốn làm cô giáo”. Đáng lẽ cô phải vào lớp 16C học tiếng Nga thì đúng hơn, không hiểu sao khoa lại xếp về lớp tiếng Trung. Tôi đâu biết trước, cô sinh viên trẻ “lạc lớp” ấy rồi sẽ đi cùng tôi suốt cả cuộc đời.
Tôi về lớp gặp lớp trưởng là anh NQP. Đó là một cựu binh mới thi đỗ vào, đã có dăm tuổi đảng, anh lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều và nhìn oai nghiêm như một ông đội thời cải cách, nói năng đầy lí luận và nhiều kinh nghiệm sống so với đám học sinh phổ thông lơ ngơ mới vào. Hồi ấy dĩ nhiên mấy học sinh phổ thông trúng tuyển có “mọc gạc” cũng khó vào vị trí đó. Lớp tôi có cả một “chi bộ lãnh đạo” mang từ tiền tuyến về, lập trường cao như núi Thái Sơn. Lũ Đoàn viên chỉ có đứng sau mà nhìn. Biết tôi là cựu sinh viên đi lính về, đã học xong năm thứ nhất, lại có mảnh giấy của khoa “đề bạt” làm lớp phó học tập nên lớp trưởng NQP đã tiếp nhận tôi một cách nhẹ nhàng. Anh chỉ cười cười khiêm tốn: “Bọn mình đi lính lâu, kiến thức quên hết rồi, kiểu này phải nhờ cựu sinh viên cũng nên”. Thời đó sinh viên đến trường là chỉ để đi học (không như bây giờ, chúng đến để làm đủ thứ trò hề gì đó) nên cái “ghế” lớp phó học tập xem ra cũng cao. Lúc bấy giờ các chức danh ban cán sự lớp năm thứ nhất đều do khoa cử. Từ năm 2 về sau, dưới “sự lãnh đạo của chi bộ”, đại hội lớp sẽ bầu lại.
Tôi tưởng mình rời quân ngũ đã thuộc diện chậm nhất, hoá ra mấy ngày sau thằng bạn cùng lớp khoá 12 với tôi là Hà Tùng Sơn đang làm ở Uỷ ban Quân quản Sài Gòn mang chiếc ba lô nặng trịch nằm vắt ngang chiếc khung xe đạp ở trên mới lò dò trở về. Hắn là cả một pho tiểu thuyết đầy chất anh hùng ca và lãng mạn do vừa tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng rồi trở thành cán bộ quân quản thành phố nắm trong tay cả một núi quyền lực của Bắc cộng để có thể hù doạ mấy chú Nguỵ quân thua trận. Như là có sự sắp đặt, chức Bí thư chi đoàn vẫn còn để trống chờ một anh đảng viên trẻ trở về từ mặt trận. Sơn vào vai Bí thư chi đoàn như “khoai đã sắp vào ấm”. Nhưng dù đầy tự tin của người lính đã qua trận mạc, hắn vẫn có chút bối rối khi khoa trao nhiệm vụ nên ghé tai tôi nói nhỏ: “Tao mới được vào đoàn trước vào đảng một ít thôi, bí thư bí thiếc gì!”. Tôi cười động viên: “Mấy ông Uỷ viên trung ương đầu tiên nói chung thì cũng vào Đảng mấy bữa là được bầu, được cử cả thôi”. Hắn có vẻ yên tâm với cương vị mới và bắt đầu lao vào công việc của một đảng viên đang phấn đấu để chuyển chính thức, nên chỉ khổ cho đám đoàn viên phải chạy theo cái “đầu tàu” đang kéo cả chi đoàn lướt qua mọi khó khăn để xứng đáng với “cánh tay phải của đảng”. Chi đoàn 16D với sự dẫn dắt của một đảng viên trẻ tuổi đảng nhất (Sơn vừa vào đảng xong), gì chứ “khí thế Hồng vệ binh” thì chắc chắn có thừa!
Ít hôm sau nữa, một bạn thân cùng lớp 12 khác của tôi là Nguyễn Phong Nam cũng từ chiến trường C (Lào) trở về mà phải khó khăn lắm mới được lớp trưởng cho vào. Hồi ấy đảng viên làm cán bộ nhiều quyền lắm.Tôi chờ Nam lên trường làm thủ tục nhập học xong xuôi, hai thằng hí hửng xuống khoa để xin về cùng lớp. Đang là “phó thủ trưởng” của lớp 16D, tôi chắc mẩm thế nào cũng đưa được hắn về bên nhau sau hơn ba năm cầm súng ra trận. Có gì đâu, phân một sinh viên – chiến binh, lại là đảng viên nữa về lớp nào mà chẳng được! Vậy mà, dù đã có chiếc “phiếu về lớp” của khoa, Nam vẫn bị lớp trưởng 16D từ chối vì cho rằng: “Lớp này đông rồi, anh bảo khoa phân sang lớp khác!”. Tôi phải đem hết tài “thuyết khách” hiếm hoi có được ra dụ mãi, thậm chí phải thề nguyền tôi mới xin được cho Nam về lớp: Nào là tay này từng học với tôi tôi rất biết, hắn học khá đã đành lại rất giỏi văn nghệ; Nào là Nam còn có tài tổ chức; Nào là lớp ta lại thêm được một đảng viên...Nguyễn Phong Nam thì chỉ nói tưng tửng: “Mày cứ kệ đi, học ở lớp nào mà chẳng được”.
Thế là cuối cùng ba thằng bạn cũ chơi với nhau từ lớp 12A chúng tôi đã về bên nhau thành một “tổ ba người” trong học tập, mà trong chiến trận phải một đứa một nơi, suốt cả mấy năm nhập ngũ biền biệt phương trời...
(Còn tiếp)


8 tháng 4, 2019

Bình dân và quý tộc có khi chỉ là một


Hồi nẳm tôi có dịp sang Hong Kong, đi dạo trên những con đường rợp mát bóng cây với những cánh hoa màu hồng nở rực rỡ, nghe anh chàng HDV giới thiệu hoa này ở HK gọi là hoa Tử kinh và được chính quyền HK tôn làm quốc hoa vì sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp hồn nhiên của nó.
Tôi ngắm kĩ thì ra nó chính là loài hoa mà ở miền Nam VN người dân vẫn gọi bằng một cái tên rất dân dã là hoa móng bò. Vì cái lá của nó có hình cái móng con bò nên gọi là móng bò. Đó là một cái tên tượng hình, giản dị và dễ hiểu cứ như xà phòng thì gọi là bột giặt, mì chính gọi là bột ngọt. Hoa móng bò mọc khắp mọi con đường ở Sài Gòn và khắp mọi con đường quê Nam Bộ. Thế mà dân Hong Kong cứ vênh mặt lên tự hào với cái tên nghe rất quý tộc là hoa tử kinh. Vì là quốc hoa, tử kinh có mặt trên quốc kỳ Hong Kong. Người Nam Bộ theo đó cũng lấy làm tự hào vì loài hoa dân dã của xứ mình lại được dân xứ Cảng thơm tôn sùng.
Điều đó khiến tôi có chút ngạc nhiên.
Nhưng chưa hết, ở vùng Tây Bắc nước ta có loài hoa gọi là hoa ban trông y hệt hoa móng bò/tử kinh. Người Tây Bắc nói chung và Điện Biên Phủ nói riêng cũng rất tự hào về hoa ban. Chính quyền nơi đây còn tổ chức hẳn cả một lễ hội hoa ban và xem nó như một đặc sản của núi rừng Tây Bắc.
Tò mò tôi xem kĩ từ hoa đến lá đến cây thì hoa ban chính là tên gọi khác của hoa móng bò, cũng là hoa tử kinh. Vậy là một loài hoa có 3 tên gọi. Nghe tử kinh thấy sang trọng, nghe hoa ban có vẻ quý phái, nhưng móng bò lại rất bình dân. Nghe nói bên xứ Mông Cổ còn gọi là hoa móng lừa vì lá của nó cũng là hình móng con lừa quen thuộc của họ. Bốn cái tên thực ra đều dùng để gọi một loài hoa. Vậy mà cứ ầm ĩ cả lên.
Ở quê tôi có một loại cây dây leo mọc khắp mọi lối mòn và cả trong rừng gọi là cây ngấy. Cây có gai, lá bứt về phơi khô nấu nước uống thơm nức và chữa được nhiều bệnh như tiểu đường, huyết áp cao. Tôi và lũ trẻ con hồi nhỏ đi sơ tán lại rất thích quả của nó khi chín đỏ hái ăn rất ngọt và ngon. Mặc cho gai cào xước chân tay mặt mũi vẫn vươn hái hết trái chín bỏ vô mồm ăn đến đâu tỉnh táo đến đó. Cái bụng đói luôn sôi sùng sục thì ăn gì mà chả ngon. Quả của nó mọng nước, đầy đặn như một mâm xôi tí hon. Vì thế mà có nơi còn gọi cây ngấy quê tôi là cây mâm xôi. Cũng là một cái tên tượng hình. Từ cây ngấy đến cây mâm xôi là cả một bước tiến dài từ bình dân đến sang trọng.
Thế nhưng cũng từ hồi trẻ con, tôi hay đọc mấy cái truyện ngắn và tiểu thuyết của Liên Xô kiểu như Thép đã tôi thế đấy, Cánh buồm đỏ thắm, Người thầy đẩu tiên… thì thấy các nhà văn Nga hay nhắc đến một loại cây có cái tên rất sang là phúc bồn tử. Sau này tìm hiểu ra thì nó chính là cây ngấy, cây mâm xôi ở VN. Thế mà khi chưa biết cứ nghĩ là quý tộc thượng lưu lắm.
Chưa hết, ở Sài Gòn và cả miền Nam nước ta, đi đâu cũng gặp loài hoa mọc từ cây thân gỗ rất cao to là muồng hoàng yến. Hoa nở vàng rực thắp sáng lung linh mọi con đường thành phố, thắp sáng cả những góc vườn thôn quê Nam Bộ. Nhưng nó là loại hoa có rất nhiều tên gọi khác nhau, trong đó có cái tên nghe rất Nhật Bản là Ôxaka. Trong lúc ở Lào lại gọi là đọc Khun hoặc gọi ngắn lại là hoa Khun. Còn ở Thái Lan gọi nó là hoa đoọc khun (hai chữ o) và tôn sùng làm quốc hoa. Hôm mới rồi ra Vinh, thấy lão Trung Ngọc Nguyễn đang chăm bẵm một cây đoọc khun mới mọc được gang tay ai đó đem đến cho. Nhìn lão nâng như nâng trứng cái cây quốc hoa Thái Lan bé xíu, tôi bảo ông vô Sài Gòn tôi cho hẳn một xe tải mang về trồng khắp trường ĐH Vinh. Hắn nhìn tôi nghi hoặc. Không lẽ cây hoa quý hóa sang trọng của mình lại là loài hoa bình dân nở khắp trời Sài Gòn.
Thế đấy. Ở đời có khi quý tộc thượng lưu và bình dân giản dị chỉ là một.

Hoa Tử kinh/Móng bò/Hoa Ban

 Ngấy/Mâm xôi/Phúc bồn tử

Muồng hoàng yến/Ô Xa ka/ Đoọc khun/Khun...,