29 tháng 11, 2021

Bài giảng đầu đời (Cố sự tân biên)

 HTS: Người ta có mối tình đầu, có bài học đầu đời, tôi có bài giảng đầu đời.

Năm 1979 tốt nghiệp ĐHSP Vinh tôi được phân công về dạy ở khoa Văn ĐHSP Quy Nhơn. Hồi đó chẳng phải xin xỏ gì. Học xong người ta phân đi đâu thì đi đó cứ như trời định vậy. Không như sinh viên bây giờ tốt nghiệp đồng nghĩa với thất nghiệp. Chúng tôi hồi đó thuộc lòng câu: Cầm vàng còn sợ vàng rơi; Cầm bằng tốt nghiệp đời đời ấm no.

Về khoa Văn QNU tôi gặp lại thầy Trưởng khoa kiêm trưởng bộ môn Nguyễn Văn Giai là thầy giáo cũ dạy tôi văn học Nga khi còn học năm 3 ở VU. Ngay buổi họp tổ bộ môn đầu tiên, Thầy phân công tôi đảm nhiệm môn văn học Trung Quốc cùng tổ văn học nước ngoài với ông. Tôi vốn dễ tính, thực ra môn mà tôi thích theo đuổi là Lí luận văn học, nhưng thôi, mất ngựa biết đâu lại là điềm may của ông già cửa ải.

Theo qui định đối với giảng viên đại học, năm đầu tiên ở lại trường tôi được đi đọc sách, biên soạn bài giảng và dự giờ các giảng viên khác, nhất là các thầy từ trường bạn đến thỉnh giảng, sau đó còn phải đi thi vào cao học 2 năm ở Hà nội hoặc Vinh mới được tập tõm lên lớp.



Khoảng cuối năm 1980 có Thầy Lương Duy Thứ là một trong số ít GS dạy VHTQ hàng đầu của Việt Nam từ ĐHSP 1 Hà Nội vào thỉnh giảng. GS. Thứ cùng quê với tôi, là anh của thầy Lương Duy Cán dạy văn tôi hồi học cấp 3 Đồng Hới. Có hôm nói chuyện biết tôi học văn với thầy Cán, thầy Thứ nói: Thằng đó được lắm đấy. Tôi nói: Thần tượng của em đấy thầy.
Thế rồi tôi ngày ngày chăm chỉ ôm cặp lên giảng đường cùng với SV khóa 1 học bài của sư phụ. Với tôi, sinh viên văn khóa 1 ĐHSP Quy Nhơn là một thế hệ nhiều tài năng, sau này ra trường có nhiều người rất thành đạt. Năm 1979 tôi ra trường thì họ đã học năm 2, tôi mới 25 tuổi, chỉ hơn họ mấy năm học, trong đó nhiều anh chị là gv cấp 2 đi học, là bộ đội xuất ngũ ngang tuổi thậm chí lớn tuổi hơn tôi như anh Đích, anh Thạo, anh Hộ hoặc như anh Huỳnh Chín cán bộ Sở GD Nghĩa Bình người cùng sinh hoạt chi bộ khoa văn với tôi. Ở khóa này tôi cũng rất nhớ một cô gái có tên Bạch Huệ, người có bài làm rất tốt khiến tôi đã cho điểm 10 VHTQ khi chấm thi hết môn cuối học kì (trong hàng chục năm dạy ở ĐH Quy Nhơn, tôi chỉ cho điểm 10 với 3 sinh viên: Bạch Huệ khóa 1, Thanh Sơn khóa 3 và Diễm Trâm khóa 6).


Một hôm Thầy Lương Duy Thứ bảo tôi: Đầu tuần sau đến phần thực hành chương Sử kí của Tư Mã Thiên, tôi dành 1 tiết để cậu lên phân tích tác phẩm Liêm Pha – Lạn Tương Như liệt truyện cho SV nhé. Dù lo lắng nhưng tôi sẵn sàng nhận lời Thầy, bởi nghĩ có dịp nên thử sức và khẳng định mình xem sao.
Liêm Pha – Lạn Tương Như liệt truyện là một tác phẩm thuộc loại hay nhất, có nhiều kịch tính nhất trong Sử kí, thể hiện được nhiều tài năng và sự thâm thúy trong ngòi bút của nhà viết sử cũng là nhà văn vĩ đại thời cổ đại Tư Mã Thiên. Nó có trong chương chương trình văn cấp 3.


Câu chuyện tóm tắt như sau:

"Liêm Pha là một tướng tài của nước Triệu thời Chiến quốc. Năm 283 TCN, nước Triệu theo kế hợp tung của nước Yên cùng đánh Tề Mẫn vương kiêu ngạo, Liêm Pha được Triệu Huệ Văn vương cử làm tướng đi đánh Tề. Liêm Pha phá tan quân Tề, lấy ấp Dương Tấn về nước Triệu. Nước Tề sau đó bị nước Yên đánh bại.

Liêm Pha được làm thượng khanh, dũng khí của ông nổi tiếng khắp các nước chư hầu.

Khi đó Lạn Tương Như vốn xuất thân chỉ là người phục vụ dưới quyền hoạn quan Mục Hiền, nhờ việc đi sứ nước Tần bảo toàn được ngọc bích và uy tín của nước Triệu trước nước Tần hùng mạnh nên được phong làm thượng đại phu. Nước Tần hứa đổi 15 thành lấy ngọc bích họ Hoà của nước Triệu nhưng không thực hiện lời hứa, kết quả nước Triệu cũng không đem ngọc bích cho Tần.
Năm 282 TCN, vua Tần bực nước Triệu không chịu dâng ngọc bèn đánh Triệu, lấy Thạch Thành. Năm sau lại đánh Triệu, giết hai vạn người. Sau đó vua Tần sai sứ giả nói với Triệu Vương muốn họp nhau ở Dẫn Trì để giảng hoà. Vua Triệu sợ nước Tần hung hãn, từng bắt giữ Sở Hoài vương khi đến hội họp nên định không đi. Liêm Pha và Lạn Tương Như bàn rằng: Nhà vua không đi thì tỏ ra nước Triệu yếu và nhát.

Vua Triệu nghe theo, bèn đến hội họp. Lạn Tương Như đi theo phò tá vua Triệu. Liêm Pha tiễn đến biên giới, từ biệt nhà vua nói: Nhà vua đi, tính đường đi về cùng hội họp, chẳng quá ba mươi ngày, nếu ba mươi ngày không về, xin lập thái tử làm vua để cho Tần hết hy vọng.
Triệu Huệ Văn vương nghe theo.

Trong thời gian Triệu vương và Lạn Tương Như đối đầu với vua quan nước Tần ở Dẫn Trì, Liêm Pha coi giữ nước Triệu, không gặp biến cố nào.
Lạn Tương Như có công phò tá vua Triệu hội kiến vua Tần ở Dẫn Trì khiến nước Tần không dám chèn ép nước Triệu nên được vua Triệu phong làm thượng khanh, địa vị trên cả Liêm Pha.


Liêm Pha bất mãn nói: Ta là tướng nước Triệu, phá thành đánh trận có công to, trái lại Tương Như chỉ nhờ miệng lưỡi lập công mà địa vị ở trên ta. Hơn nữa, Tương Như vốn người thấp hèn, ta xấu hổ không mặt mũi nào ngồi ở dưới ông ta.


Và ông rêu rao rằng:
Ta gặp Tương Như, quyết làm nhục ông ta.
Tương Như nghe vậy, chủ động tránh không gặp Liêm Pha. Về sau, ông nghe mọi người nói lại lời Tương Như giải thích rằng:
Oai như vua Tần mà Tương Như dám gào thét ở giữa triều đình, làm nhục cả quần thần. Tương Như tuy hèn nhát há sợ Liêm tướng quân sao. Nhưng ta nghĩ rằng nước Tần sở dĩ mạnh, không đem binh lính đánh Triệu vì có ta cùng Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đánh nhau, thế nào cũng không sống được cả, cho nên ta phải làm như thế, vì nghĩ đến việc cấp bách của nước nhà trước mà gác việc thù riêng đó thôi.
Liêm Pha nghe vậy ân hận, nhận ra lỗi của mình. Ông bèn cởi trần, mang roi nhờ tân khách đưa đến cửa nhà Lạn Tương Như tạ tội, nói: Kẻ hèn mọn này không biết tướng quân rộng lượng đến thế!
Rồi từ đó hai người vui vẻ làm bạn sống chết có nhau khiến nước Tần không dám hăm dọa nước Triệu. Sau này khi Liêm Pha và Lạn Tương Như qua đời, nước triệu suy yếu hẳn rồi mất vào tay Tần".
Tôi dành mấy hôm đọc và nghiền ngẫm kĩ tác phẩm, rồi soạn bài. Bài soạn của tôi là mấy trang A4 gạch xóa lem nhem, nếu người ngoài có nhìn vô cũng không biết đâu mà mò. Buổi tối cuối cùng gần như tôi không ngủ được, nghĩ đến bài giảng ngày mai dù chỉ một tiết ngắn ngủi nhưng lòng tôi bâng khuâng khó tả. Vừa náo nức vừa lo lắng. Cứ nằm vắt tay lên trán một lúc lại đứng dậy lật lật bài soạn rồi đi lại vung tay lảm nhảm một mình trong phòng như một thằng bị bệnh mộng du. Lần đầu tiên tôi thấm thía sự vất vả của cái gọi là lao động giáo án của nghề dạy học. Bạn ở cùng phòng là Nguyễn Ngọc Quận dạy Hán Nôm bị tôi phá không ngủ được bực lắm nhưng cũng ra chiều thông cảm nên không hó hé gì.
Khi cảm thấy đã ổn rồi tôi lên giường ngủ. Nhưng mắt vẫn không chịu ngủ. Có một cái gì chưa ổn trong bài phân tích của mình. Đó là sự ca ngợi hết lời nhân vật Lạn Tương Như của các bài viết trong giáo trình VHTQ cũng như trong các tài liệu tham khảo khác. Bài soạn của tôi cũng đi theo hướng đó, hết lời ca ngợi viên quan văn Lạn Tương Như rộng lượng, biết đặt lợi ích đất nước lên trên danh tiếng cá nhân; và chê trách nặng lời viên quan võ Liêm Pha bụng dạ hẹp hòi suýt nữa thì làm mất nước. Đây chính là chỗ mà tôi thấy không ổn trong nhận thức và phân tích tác phẩm. Nếu phân tích theo hướng này thì câu chuyện của Tư Mã Thiên không có chỗ cho sự thâm thúy. Lạn Tương Như là nhân vật tốt từ trong trứng. Ngay từ khi xuất hiện trong tác phẩm, ông ta đã là một con người tốt và cho đến hết tác phẩm tính cách của con người này vẫn vậy, không có gì phát triển. Đây không thể là một hình tượng nhân vật điển hình của tác phẩm được. Nếu hướng sự phân tích ca ngợi vào nhân vật này như các giáo trình văn học và tài liệu tham khảo đã viết tức là cố tình đẩy vào một cánh cửa đã mở sẵn. Một việc làm vô ích.
Nghĩ đến đó tôi bật dậy lấy bút viết lại bài phân tích theo hướng đề cao nhân vật Liêm Pha, một vị đại tướng lỗi lạc biết nhận ra sai lầm của mình để phục thiện. Con người ta ở đời ai cũng có sai lầm. Vấn đề là biết nhận ra cái sai của mình để từ đó sửa chữa lỗi lầm và phát triển nhân cách ngày một hoàn thiện hơn. Liêm Pha mới chính là hình tượng nhân vật đáng ngợi ca nhất của tác phẩm, là một hình tượng điển hình trong câu chuyện và trong cả bộ Sử kí vĩ đại, một con người biết vượt lên chính mình.
Sau khi đã viết lại gần như toàn bộ giáo án nhìn đồng hồ đã 3h sáng, tôi mệt mỏi lăn đùng ra giường ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm với tâm trạng đầy hồi hộp và náo nức cứ như thể lần đầu tiên hẹn hò với cô bạn gái trong mối tình đầu, mặc bộ quần áo đẹp nhất, tôi xách cặp rời khu tập thể CBGD để hầu sư phụ GS Lương Duy Thứ lên lớp.
Vẫn những bậc cầu thang quen thuộc lên giảng đường trên lầu 2 ấy nhưng hôm nay tim tôi đập rộn ràng.
Sau mấy lời giới thiệu của GS hướng dẫn, tôi bước lên bục giảng cầm viên phấn trắng nắn nót viết lên tấm bảng xanh dòng chữ: Phân tích tác phẩm Liêm Pha – Lạn Tương Như liệt truyện. Nhìn xuống lớp thấy GS. Thứ ngồi hàng ghế cuối cùng lấp lánh đôi mắt kính như đang khích lệ; cả trăm bạn sinh viên khóa 1 cũng như đang khích lệ thầy giáo trẻ.
Sự hồi hộp ban đầu qua mau.
Rồi tôi như bị cuốn hút vào bài giảng của mình, cuốn hút như là đang lên đồng. GS Thứ dành cho bài giảng của tôi một tiết nhưng tôi đã chiếm dụng của thầy cả một tiết rưỡi (Hôm đó thời khóa biểu của văn 1 có 3 tiết VHTQ).
Điều bất ngờ là khi tôi nói lời chấm dứt bài giảng của mình, cả 2 lớp SV khóa 1 học chung đã vỗ tay cổ vũ, thầy Thứ cũng đứng dậy vỗ tay. Tôi nghĩ vậy là mình ổn rồi.
Sau đó GS Thứ lên nhận xét. Thầy nói ngắn gọn: Qua bài giảng vừa rồi của thầy HTS, tôi xin được nói rằng, nếu tôi là Mao Trạch Đông thì thầy HTS là Lâm Bưu.
Chỉ có thế.
Lời nhận xét của Thầy làm tôi sướng ngất ngây. Bởi đó là một lời khen nhiều ngụ ý. Thời đó nếu ai quan tâm đến chính trị, sẽ biết rằng chủ tịch Trung Quốc khi đó là Mao Trạch Đông đã chọn Lâm Bưu làm người kế vị của mình vì thế Phó chủ tịch Trung Quốc Lâm Bưu là nhân vật số 2 sau Mao Trạch Đông. Khi đó bất cứ báo đài nào nếu đã nhắc đến Chủ tịch Mao Trạch Đông hiển nhiên phải nhắc đến Phó chủ tịch Lâm Bưu. Hai con người này gắn liền nhau như hình với bóng trên đại lễ đài Thiên An Môn, trên các đoàn chủ tịch đại hội của Trung Quốc thời đó. Với ví von ấy Thầy đã kín đáo khen học trò là tôi rất nhiều. Không sướng râm ran sao được.

Từ đó đến nay, gần tròn 40 năm đã đi qua, kể cả khi đã chuyển sang làm nghề báo cả hai chục năm trời, tôi vẫn gắn bó với môn VHTQ, vẫn hồi hộp và say mê mỗi khi có dịp bước chân vào một lớp học nào đó để giảng bài, bởi tôi không bao giờ quên lời khen ấy của Thầy tôi, GS Lương Duy Thứ.

 

             Tổ bộ môn Văn học nước ngoài khoa Ngữ văn ĐHSP Quy Nhơn.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có nhận xét mới