Sáng nay lên Trường, việc đầu
tiên tôi mở hộp thư công vụ theo thói quen cần thiết. Hộp thư VHU này thường chỉ
là những email công vụ trong nội bộ trường. Nhưng email đầu tiên đập vào mắt
tôi là của một bạn học cùng khóa 16 khoa văn ĐH Vinh, hiện đang là GV của
trường ĐH Vinh - PGS. Nguyễn Văn Tứ. Email của Tứ đồng thời gửi cho Nguyễn
Trung Ngọc, cũng là bạn học đang ở ĐH Vinh (học cùng khóa 16 nhưng Tứ là HS phổ thông đi học, tôi và Ngọc là SV cũ đi lính trở về học tiếp), viết:
Gửi anh Hà Tùng Sơn và anh Nguyễn Trung Ngọc
..... Khoảng năm 2010, ông Nguyễn
Thiện Nhân, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo, cùng với một số quan chức của tỉnh Nghệ An, của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
lên dâng hương tại Đài Sen, đã nói với những người xung quanh: không chỉ là
việc tìm kiếm tên các liệt sĩ mà phải có trách nhiệm tìm kiếm quê quán các liệt
sĩ và hỗ trợ việc tìm kiếm phần mộ các liệt sĩ....
....Sau lễ kỷ niệm đầy ấn tượng, một người cầm một bộ hồ sơ do một cựu chiến binh từ Sài Gòn gửi ra, nhờ một động đội chuyển đến Nhà truyền thống của Trường để nói rằng: có một sinh viên liệt sĩ vẫn còn chưa được ghi tên vào DANH SÁCH LIỆT SĨ: một trong những hiện vật làm nên giá trị của truyền thống....!
....Sau lễ kỷ niệm đầy ấn tượng, một người cầm một bộ hồ sơ do một cựu chiến binh từ Sài Gòn gửi ra, nhờ một động đội chuyển đến Nhà truyền thống của Trường để nói rằng: có một sinh viên liệt sĩ vẫn còn chưa được ghi tên vào DANH SÁCH LIỆT SĨ: một trong những hiện vật làm nên giá trị của truyền thống....!
......
""Cõng bạn về quê"; một bài thơ xúc động, chan chứa nghĩa tình
đồng đội mà chỉ có những người trọng cuộc mới hiểu....
... Tác giả
"Nó và tôi - Một thời hoa lửa" cũng là một cựu chiến binh từng là
sinh viên lên đường vào những năm 1972....
Đính kèm là 2
file với bài vết của Tứ và bài thơ Cõng
bạn về quê.
Tôi đọc và xúc động suốt buổi sáng. Và đã mail lại cho Tứ như sau:
Thân gửi Nguyễn Văn Tứ!
Rất cảm động vì sáng nay lên
trường, vừa mở hộp thư công vụ theo thói quen thì nhận được email của Tứ.
Mình đã đọc hết bài viết của Tứ
và bài thơ Cõng bạn về quê của Lý Hoài Xuân. Đọc mà ứa nước mắt.
Mới rồi mình có gửi cho Nguyễn
Trung Ngọc 1 bộ hồ sơ liệt sĩ là của 1 cựu SV khóa 10 khoa văn ĐHSP Vinh,
tên là Trần Dôn, là anh trai của người em rể của mình, nhập ngũ 1970, hi sinh
1971 tại Long An. Người LS này hi sinh trong một trận đánh ở Long An. Trận đó
quân ta chết rất nhiều. Sau trận đánh, bọn địch canh gác suốt 3 ngày không cho
ta lấy xác LS về. Khi bọn địch rút đi, đồng bào ở nơi đó đã đào một cái hầm lớn
rồi chôn chung tất cả thi hài LS ta vào hầm đó (không có quan tài). Người
dân đặt tên cho ngôi mộ chung đó là mộ "Bắc bỏ" (nghĩa là những người lính miền Bắc bỏ mạng ở miền Nam), một cái tên nghe nhói cả lòng.
Năm ngoái chú em rể của mình cất
công từ Quảng Bình vào Long An để tìm hài cốt LS Trần Dôn về, đã đến tận ngôi
mộ chung đó nhưng bó tay vì dưới đó, hầm mộ là hài cốt mấy chục LS trộn lẫn với
nhau. Không thể xác định được ai với ai.
Mới rồi về quê Quảng Bình, mình
đã nói chú em rể cho mình 1 bộ hồ sơ LS (rất đầy đủ) của cựu SV khóa 10 Khoa Văn ĐHSP
Vinh, LS Trần Dôn, nhờ bạn Nguyễn Trung Ngọc gửi cho Phòng Công tác chính trị của Trường ĐHV, để đưa vào hồ sơ LS và phòng Truyền thống của Trường.
Không biết hành trình đó đã kết
thúc hiệu quả chưa.
Chúc Tứ mạnh khỏe và thành công
trong cuộc sống.
Thân.
P/S: Nếu còn cuốn sách "Nó và tôi - Một thời hoa lửa" cho mình xin 1 cuốn nhé.
THƯ GỬI TÁC GIẢ “NÓ VÀ TÔI – MỘT
THỜI HOA LỬA”
Nguyễn Văn Tứ
Nghệ An, ngày 23 tháng 8 năm 2013
Kính gửi anh Nguyễn Như
Thìn, cựu chiến binh của Thành cổ Quảng Trị, tác giả “Nó và Tôi - Một thời hoa hoa lửa”
Đúng vào dịp Rằm tháng 7, lúc ở các nghĩa trang liệt
sĩ ở Quảng Trị và nhiều nơi ở trên đất nước Việt Nam, mọi người đang cầu cho
vong linh các liệt sĩ được siêu thoát cõi vĩnh hằng thì em nhận được một trăm
cuốn sách “Nó và Tôi - Một thời hoa hoa lửa” của anh gửi tới!
Khi khệ nệ vác thùng sách gần 20 kg lên đến tầng 3 của ngôi nhà nơi em làm
việc, người bưu tá hỏi em sách gì nặng thế, em nói qua về lai lịch cuốn sách và
anh ấy nói với em “đây là một việc làm
thiện tâm”. Em cảm ơn người bưu tá và mặc dù chưa xin phép anh, nhưng đã
tặng người ấy một cuốn sách như anh đã mong muốn để được nhiều người đọc hơn!
Kính
thưa anh!
Khi đọc cuốn sách của anh, em xúc động thật sự, nhất
lại là với em, một em trai của một liệt
sĩ hy sinh ở Thành Cổ Quảng Trị mà hiện nay vẫn chưa tìm được phần mộ. Chưa lần
nào gặp anh, chỉ nhìn thấy anh trong mấy bức ảnh ở cuốn sách, nhưng cảm nhận
chung của em về “Nó và Tôi – Một thời hoa lửa” là hiện thực được nói một cách thẳng
thắn, một phong cách hài hước mang đậm tính nhân văn.
Đó là sự thật khốc liệt của chiến tranh. “Khánh voi” được anh nói thật một cách
trần trụi. “Công tử Hà Thành” cũng
vậy, nó làm cho con người đau đớn hơn khi có sự đối lập giữa đầu và cuối câu
chuyện. “Một thời máu và và rau”, “Chữ … đói” cũng là sự khổ ải của chiến
tranh. Ngay cả câu chuyện nói về bộ phim “Mùi
cỏ cháy” cũng đã nói lên sự khốc liệt của chiến tranh: điều mà phim ảnh
nhiều lúc cũng cố pha vào một chút tô vẽ nào đó. Thôi thì cũng được, làm dịu
cơn đau cho những mất mát, dù là việc làm dịu bằng sự giả dối. Em nhất trí với
anh, trong bối cảnh ấy, làm gì có chuyện chơi dế, hát chèo tại Thành cổ,… Nếu
đọc những đoạn nói về sự vất vả, nặng nọc của những người lính vác ba lô, súng
đạn hành quân mà anh kể lại thì mới biết hình ảnh “ngắt một đóa hoa rừng cài trên mũ ta đi” phải chăng là sự tô vẽ…
Tuy nhiên, cuộc sống con người trong bom đạn vẫn có những suy nghĩ về một cây
rau dền, về một mùa trồng hai vụ,… Cuộc sống là thế, bản chất của con người là
thế!
Dù thế nào đi nữa, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, con
người vẫn là con người! “Con gà mái hoa”
là kết quả tự nhiên trong quan hệ của con người. … “Trăng mười bảy” là một hiện thực khác của “mảnh trăng cuối rừng”… “Thư tình của người lính” là một thiệt thòi, hy sinh tại hậu phương của
người lính khi ra chiến trận… Những câu chuyện ấy làm em nhớ lại bức thư của
một liệt sĩ viết trước lúc hy sinh. Đó là liệt sĩ Lê Văn Huỳnh (hy sinh ngày
2/1/1973), quê ở xóm Một, xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, là sinh
viên năm thứ tư Khoa Xây dựng, khóa 13 của ĐH Bách khoa Hà Nội, một người lính
đã tham gia chiến dịch 81 ngày đêm ở Quảng Trị. Sự khốc liệc của chiến tranh,
khiến cho người lính đã dự cảm về mình trước khi đi vào trận đánh. Đúng vào
thời điểm khốc liệt nhất, trước 4 ngày nữa là kết thúc chiến dịch 81 ngày đêm,
ngày 11/9/1972, người lính Lê Văn Huỳnh đã viết thư về cho gia đình dự cảm được
điều gì sẽ xảy ra khi mình đi vào trận đánh. Bức thư được tìm thấy ngày
28/10/2002, hiện được đặt trong Bảo tàng Thành Cổ. Bức thư viết trước trận
đánh, chưa kịp gửi và luôn bên cạnh người lính cho đến ngày anh hy sinh, là nỗi
lòng của anh dành cho người mẹ già yếu, cho người vợ mới cưới bảy ngày, cho anh
trai, chị dâu, cho cha mẹ vợ, cho đứa cháu đích tôn, cho người bạn thân thuở
nhỏ và cho bà con lối xóm. Bức thư đã thể hiện bao tâm tư tình cảm, hoài bão,
ước mơ đành gác lại phía sau…“Quảng Trị
11/9/1972. Toàn thể gia đình kính thương ... Con viết mấy dòng cuối cùng trước
khi “đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất”….
Mẹ kính mến! Lớn lên trong tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa đền đáp
được công ơn to lớn đó của mẹ thì đứa con út của mẹ đã phải đi thăm bố con rồi.
Thư này tới tay mẹ chắc mẹ buồn lắm. Lòng mang nặng đẻ đau giọt máu đào hơn ao
nước lã, lá vàng còn ở trên cây lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời…. Xin mẹ
đừng buồn để sống đến ngày tin mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc
đầu, coi như con lúc nào cũng ở bên mẹ, coi như con đã sống trọn đời cho Tổ
quốc mai sau…”. Bức thư có đoạn anh dặn người vợ chỉ sống với anh được bảy
ngày nhưng đằng đẵng chờ đợi anh hơn mấy chục năm: “Ngày thống nhất, em hãy vào Nam tìm anh. Đường đi như sau: Đi tàu vào
thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh hy sinh. Từ thị xã, qua cầu
ngược trở lại hỏi thăm đường về thôn Nhan Biều I. Nếu tính xuôi theo dòng nước
thì mộ anh ở cuối làng”. …Mấy chục năm sau, theo thông tin của bức thư,
đồng đội đã tìm lại được nơi anh nằm lại (ở thôn Thượng Phước, bên cạnh thôn
Nhan Biểu) và đưa anh về quê hương để anh “lúc
nào cũng ở bên mẹ” như ước nguyện của tất cả những liệt sỹ đã hy sinh ở
Thành Cổ và nhiều nơi khác…. “Ta đi suốt
cả cuộc đời, Vẫn không đi hết những lời mẹ ru…” (Nguyễn Duy). Những người
Mẹ liệt sĩ đã thầm lặng hy sinh những người con của mình cho sự tồn vong của Tổ
quốc ấy chưa bao giờ đọc “Người con gái Nam Xương”, nhưng tâm nguyện “con ra
trận đợt này, mẹ không mong thành vương thành tướng, chỉ mong sao mang được tấm
thân của mẹ trọn vẹn trở về” vốn là bản chất của tất cả những bậc sinh thành ở
trên thế gian này!
Một cảm nhận khác khi đọc cuốn sách của anh, đó là
hiệu quả của những cuộc tìm kiếm phần mộ liệt sĩ…. Những khốc liệt đó được anh
miêu tả chủ yếu sau ngày 23/8/1972 và ở ngoài vùng ven, thế mà cũng đã rùng
rợn… Vậy thì những ngày cuối tháng 7/1972, rồi cuộc chiến trong Thành Cổ, những
chuyến xuồng trên sông Thạch Hãn bị trúng bom như anh miêu tả,… thì mức độ ác
liệt sẽ như thế nào! Dưới sông, đưới đất “còn
đó bạn tôi nằm” là tiếng nức nở của những đồng đội của những người đã ngã
xuống, liệu thế hệ mai sau có nghe thấy không? Những hồi ức về chiến tranh chưa
nói hết những gì đã xảy ra. Cuốn sách “Được sống và kể lại” được giải
thưởng văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh của Trần Luân Tín (cựu chiến binh Thành
Cổ) mặc dù đã nói rất cụ thể về sự khốc liệt nhưng vẫn chưa nói hết, vẫn không
dám trả lời và không trả lời được câu hỏi của đứa con nhỏ “Ba ơi, ngày ấy người ta chôn người chết như thế nào!”. Cựu chiến binh Lê Xuân Tường (em đoán
là người được anh nói đến với cái tên LXT ở dòng cuối trang 90 và ở trang 151)
nói về đại tá Bùi Đức Ngoan, nguyên Trung đoàn trưởng của Trung đoàn 101 tại
thời điểm 81 ngày đêm Thành Cổ: “Nhắc
đến những trận đánh ác liệt với bao người lính của mình ngã xuống, mắt ông rưng
rưng ngấn lệ. Suốt hơn 2 tiếng đồng hồ, ông đã mấy lần nhắc lại câu hỏi: “…
ngày ấy chúng mày chết nhiều quá, có oán bố không?”. Dường như câu hỏi đó day
dứt trong lòng ông như một món nợ của cả một thế hệ đã chiến đấu và hy sinh vì
sự tồn vong của dân tộc. Và cũng chỉ có ở những người chỉ huy như ông nghĩ tới
những người lính của mình với tấm lòng phụ tử mới có thể thốt lên những lời như
vậy”.
Trước
đây, giấy báo tử ghi một dòng “thi hài
được mai táng ở nghĩa trang mặt trận”, “mai
táng ở phía nam Quân khu 4” là những địa chỉ không thật. Nhưng “những lời
nói không thật một cách hợp lý”, một “dòng địa chỉ lịch sử” như cách nói của
một cựu chiến binh ở Đông Hà ấy cũng đã làm yên tâm bao nhiêu người mẹ, người
bố trước khi nhắm mắt về cõi vĩnh hằng, đã an tâm rằng “thi hài người con thân yêu của mình đã được mai táng tại nghĩa trang”!
Có hy vọng gì tìm được thi hài của liệt sĩ, khi một đại đội qua sông Thạch Hãn
khi quay về chỉ còn lại hơn chục người, khi một đơn vị trong một ngày thay mấy
lần quân, khi một chiếc lọ penicillin của một liệt sĩ được đồng đội chôn cất
theo thì bản thân thi hài và chiếc lọ penicillin của người chiến sĩ đã chôn cất
đồng đội đến nay vẫn chưa tìm thấy được. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, cựu chiến binh
ở Quảng Trị, từng khóc: “Nếu tất cả trở về đông đủ, Sư đoàn ta sẽ thành mấy
sư đoàn”. “Một thời hoa lửa” của anh Nguyễn Như Thìn ấy “có người lính, mùa thu ấy ra đi từ mái tranh
nghèo, có người lính, mùa xuân ấy ra đi từ đó không về, dòng tên anh khắc vào
đá núi, mây ngàn hóa bóng cây tre…”.
Còn nhà văn Chu Lai, cũng là một cựu chiến binh ở Quảng Trị, đã nói về
sự khốc liệt của chiến tranh, rằng chiến tranh là hàng ngày những người lính
chôn lẫn nhau nhưng chưa đến lượt mình! Chu Lai “còn sống còn viết về chiến
tranh”, đã chọn cuộc chiến 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị làm đề tài để viết :
“Vì đó là một cuộc chiến theo tôi khốc
liệt nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Số phận con người đẩy tới tận
cùng, một ngày/ một đại đội hy sinh. Con số hơn 10.000 liệt sĩ là con số trần
trụi, nhưng ở đằng sau nói lên số phận của từng con người trong cái chu vi nhỏ
hẹp hơn 2 km. Cũng nói về cái chết nhưng có 2 “mùa”: khô chiến- có xác chết với
7 lần “bay” trong ngày vì bom đạn pháo tơi tả, lần cuối cùng chỉ còn 1 bàn tay;
thủy chiến – khi kéo xác lên, mặt đen- vì chỉ ló đầu lên trên mặt nước phơi
dưới nắng để quan sát địch, thân người trắng như xác cá- vì ngâm nước lâu ngày.
Và cuối cùng thì… Đó là một cuộc chiến đầy bi hùng....”. Bố em đã từng tâm
niệm một đôi câu đối trên bàn thờ liệt sĩ khi Ông đã nuôi con trong 20 năm bằng
khoai gạo nhưng lại nuôi vong linh của người con liệt sĩ ấy trong hơn 20 năm
bằng hương khói: “Bắc Hồ nam Việt, mơ
màng Hồn Ngọc biết về đâu; Địa nghĩa
thiên kinh, yên ổn Hình Loan đang tựa đó!”
Trong cuốn
sách, ở trang 78 và 79, anh đã cố gắng đưa sơ đồ mộ chí của người trung đội
trưởng Phạm Minh Châu (quê ở Anh Sơn, Nghệ An) vào trang sách… Đó là một hy
vọng, một ước mong để cho thế hệ sau vẫn tiếp tục tìm kiếm như một trách nhiệm
của hậu thế đối với lịch sử. Vẫn biết anh và đồng đội hằng năm vẫn đến các
nghĩa trang ở Quảng Trị để tìm kiếm, để thắp hương, để vuốt ve những ngôi mộ
không tên, để châm một điếu thuốc trên lư hương cỡ lớn ở nghĩa trang, để đầm
đìa nước mắt trong cái nắng mùa hè của vùng đất Quảng Trị, với mong muốn thế hệ
sau sẽ không vô cảm với lịch sử như một cô gái nào đó đã tạo dáng chụp ảnh trên
một liệt sĩ. Một cựu chiến binh ở TP. HCM đã bao lần cùng đồng đội tìm kiếm,
cầu siêu cho các liệt sĩ ở Quảng Trị; một cựu chiến binh E101 ở Hải Phòng quanh
năm luôn có một tâm niệm làm sao kỳ nghỉ hè được vào Quảng Trị để thắp hương
cho đồng đội; một cựu chiến binh của E101 khác lúc nào cũng khóc khi mỗi lần
đến các nghĩa trang liệt sĩ ở Quảng Trị “Khi
sinh Mẹ đặt tên Anh, Binh lửa ác liệt nay thành không tên…”. Đêm 30/4/2007,
VTV3 thực hiện chương trình truyền hình trực tiếp “Khúc tráng ca về một dòng sông” ở bờ sông Thạch Hãn: chẳng có nơi
nào ở trên trái đất này khi xem các màn pháo hoa rực rỡ nhưng những cựu chiến
binh Quảng Trị năm nào cũng đều đầm đìa nước mắt! Bên bờ sông Thạch Hãn có biểu
tượng giọt máu về sự hy sinh của các
liệt sĩ thì cũng nên có những biểu tượng về những giọt nước mắt buồn đau của
các thân nhân liệt sĩ, biểu tượng về giọt mồ hôi của những đồng đội, những
người đang sống đang vất vả tìm kiếm phần mộ liệt sĩ đang nằm đâu đấy trên mảnh
đất này để đưa các anh về với đất Mẹ quê hương!
Nhiều câu chuyện của anh đã để lại những trăn trở sau
cuộc chiến… “Nó và tôi” là cuộc sống
khó khăn của những người lính sau cuộc chiến, cũng là tình bạn cao cả và cảm
động. “Người đàn ông kỳ cục”, “Chuyện cổ tích thời @”,… khắc họa chân
thực hình ảnh tuyệt đẹp, cảm động của những người vào sinh ra tử có nhau, sau
hậu chiến lại đồng cam cộng khổ, mặc dù số phận mỗi người một khác.
Có thể cảm nhận của em khác với cảm nhận của người
khác! Tuy nhiên, ở nơi công tác của em, năm 1971-1972, cũng đã có hàng trăm
lượt cán bộ, sinh viên lên đường nhập ngũ. Tạm gác bút nghiên, tạm gác giấc mơ
trở thành giáo viên tương lai, trong một khu rừng ở nơi sơ tán tại Thanh Hóa,
những sinh viên tuổi mới mười tám đôi mơi chỉ biết “Thơ Tố Hữu”, “Thép đã tôi
thế đấy”,… đã lên đường nhập ngũ. Và rất nhiều trong số họ đã “mãi mãi tuổi hai
mươi” ở một nơi nào đó mà gia đình hiện nay vẫn chưa tìm thấy phần mộ. Nhà
truyền thống của trường em còn ghi tên hơn 60 liệt sĩ là cán bộ, sinh viên của
nhà trường đã hy sinh trong cuộc kháng chiến và đến ngày sóc, ngày vọng, lãnh
đạo nhà trường và cán bộ, sinh viên đã đến thắp hương tưởng niệm ở đó. Vì vậy,
không phải ngạc nhiên khi sách của anh mới về được nửa ngày, đã được một số tập
thể và cá nhân lấy đọc. Tranh thủ lúc nghỉ giải lao, em đã giới thiệu với một
số người. Khi giới thiệu với mọi người, em không nghe ai nói câu “mua và trả
tiền” mà chỉ nói “lấy để đọc và xin gửi tác giả…”. Không thể mua được những
cuốn sách như thế này, khi nội dung của những cuốn sách ấy đã kể lại sự mất
mát, hy sinh của cả một thế hệ. Anh C
lấy một cuốn và nói rằng “người bác hy
sinh ở Quảng Trị hiện vẫn chưa trìm thấy phần mộ”. Cô H, cô S lấy sách để
đọc và đưa về cho bố mẹ - những cựu chiến binh hoặc thân nhân liệt sĩ - đọc.
Anh Đ nói đây là tài liệu tốt cho giảng viên khi giảng dạy môn Chính trị. Anh D
khoa Kinh tế đã lấy hơn một chục cuốn với câu nói “rất chia sẻ với anh Nguyễn Như Thìn”. Cô H ở Công đoàn Trường, thầy
H ở khoa Giáo dục đã lấy sách cho một số cán bộ của đơn vị mình. Anh T, anh H ở
Văn phòng Đảng ủy sau khi lấy sách còn chạy theo em nói rằng “sẽ đưa về cho bố đọc vì bố em cũng là thương
binh ở Quảng Trị”. Anh C, anh G ở Đoàn trường nói rằng đây là
tài liệu quý cho việc giáo dục truyền thống. Phó Hiệu trưởng T (có anh là liệt
sĩ ở Quảng Trị) nói lấy thêm một số cuốn nhưng em nói rằng như thế là đủ vì để
sách còn dành cho nhiều người được đọc. Anh H ở Hội cựu chiến binh chỉ cần nói
sách của cựu chiến binh là đã lấy chục cuốn. Thầy N, thầy T ở phòng Sau đại
học, anh D ở khoa Quân sự, anh S ở phòng Quản trị, anh V ở phòng Đào tạo, anh H
và anh T ở khoa Lịch sử, anh G ở khoa Hóa,… cũng với những tấm lòng thiện tâm
như thế khi cầm cuốn sách của anh! Kể như thế có lẽ cũng dài dòng, nhưng để anh
biết rằng, cuốn sách của anh được rất nhiều người ở trường em đón đọc với một
thái độ trân trọng, biết ơn những mất mát, hy sinh của thế hệ cha anh! Và đó
cũng là sự thành kính của tất cả mọi người đối với “Một thời hoa lửa”!
Kính
thưa anh! Bây giờ đã sang ngày 23 tháng 8
năm 2013, đúng ngày mà cách đây 41 năm, ngày 23/8/1972, diễn ra trận đánh ác
liệt với sự tổn thất rất lớn của bộ đội ta tại Thành Cổ Quảng Trị như trong
sách anh và nhiều cựu chiến binh đã kể! Xin lỗi anh vì em viết hơi dài dòng về
những điều anh đã biết, là người đã trực tiếp tham gia cuộc chiến ấy! Nhưng
chắc cũng sẽ không làm phiền anh và những đồng đội của anh! Thầm khấn cầu cho
vong linh các liệt sĩ hy sinh ngày 23 tháng 8 năm 1972 và trong 81 ngày đêm ở Quảng Trị, cũng như các
liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, được siêu
thoát ở cõi vĩnh hằng!
Vẫn đang còn một số sách, em sẽ tiếp tục giới thiệu
trong ngày hôm nay! Em xin phép anh được gửi tặng sách cho một số đồng đội của
anh nhưng là những người đã giúp em trong hành trình tìm mộ liệt sĩ ở Quảng
Trị! Tuy nhiên, chiều nay, em sẽ gửi toàn bộ kinh phí mọi người góp lại để gửi
cho anh, dù sách đang còn. Em biết hiện nay ở một nơi thuê nhà trọ nào đó ở
Hoàng Mai, anh đang phải chống chọi với những cơn đau do thay đổi thời tiết và
khoản kinh phí này để anh thêm vào mua thuốc!
Kính chúc anh được mạnh khỏe, bình an!
Em: NVT
CÕNG BẠN VỀ
QUÊ
Với liệt
sĩ Nguyễn Hữu Nhơn
May mày vẫn còn
Không bị mối xơi
Không bị lũ cuốn trôi như nhiều đứa khác
Hôm chôn mày, vội vã
Đá tảng chặn nhát xẻng đào sâu
Sợ hoà bình lâu
Đồng đội ngậm ngùi, lo lắng!
Mà hoà bình
Cũng chẳng ai tìm mày
Bao nhiêu việc
Kẻ quên
Người nhớ
Tao cứ tưởng mày đã vào nghĩa trang
Đâu ngờ mày vẫn nằm đó!
Mẹ không còn
Cha không còn
Ở đâu cũng được
Nhưng người yêu mày còn cất giữ ảnh mày…
Thôi thì cứ theo người yêu về quê
Tao bỏ mày vào ba lô
Cõng đi tàu THỐNG NHẤT
Cấm cựa quậy để nhân viên tàu biết
Họ ách lại giữa đường thì khổ nữa mày ơi!
Không bị mối xơi
Không bị lũ cuốn trôi như nhiều đứa khác
Hôm chôn mày, vội vã
Đá tảng chặn nhát xẻng đào sâu
Sợ hoà bình lâu
Đồng đội ngậm ngùi, lo lắng!
Mà hoà bình
Cũng chẳng ai tìm mày
Bao nhiêu việc
Kẻ quên
Người nhớ
Tao cứ tưởng mày đã vào nghĩa trang
Đâu ngờ mày vẫn nằm đó!
Mẹ không còn
Cha không còn
Ở đâu cũng được
Nhưng người yêu mày còn cất giữ ảnh mày…
Thôi thì cứ theo người yêu về quê
Tao bỏ mày vào ba lô
Cõng đi tàu THỐNG NHẤT
Cấm cựa quậy để nhân viên tàu biết
Họ ách lại giữa đường thì khổ nữa mày ơi!
Lí Hoài Xuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới