Kho từ ngữ tiếng Việt có một số lượng
lớn từ Hán- Việt (khoảng hơn 80%). Từ Hán-Việt là những từ thoạt kì thủy do
người Hán- một dân tộc đa số ở Trung Hoa sáng tạo ra. Sau này vì những lí do
địa lí, chiến tranh, thương mại, giao lưu văn hóa…mà chúng đi vào đời sống của
người Việt, được người Việt “đồng hóa” để phục vụ cho tư duy và giao
tiếp. Nhiều từ Hán- Việt đồng nghĩa với từ thuần Việt, nghĩa là nó cùng chỉ một
sự vật hiện tượng nào đấy. Nhưng sở dĩ chúng cùng song song tồn tại vì ở phương
diện phong cách học, chúng khác nhau ở các sắc thái tu từ. Lớp từ Hán- Việt
thường có sắc thái trang trọng, còn lớp từ thuần Việt lại tỏ ra sinh động và
dân dã hơn. Thử so sánh một số cặp từ đồng nghĩa sau đây ta sẽ nhận ra ngay điều
đó: sơn hà - núi sông, thổ huyết - hộc máu, sặc tiết, phu nhân - vợ, bà xã, khai
mạc - mở màn…Trong văn chương có thể so sánh hai nữ thi sĩ với hai phong cách sử
dụng hai lớp từ Hán- Việt và thuần Việt rất khác nhau. Người ta ít thấy trong
thơ Hồ Xuân Hương những từ kiểu “tạo hóa, hí trường, thu thảo, lâu đài, tịch
dương, tuế nguyệt…”. Ngược lại, khó mà tìm thấy trong sáng tác của Bà huyện Thanh
Quan những “mõm mòm, toen hoẻn, phập phòm, lắc cắc, chém cha, phau phau, đỏ
lòm lom…”vốn dày đặc trong tác phẩm của bà chúa thơ Nôm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ
tướng Phạm Văn Đồng ý thức rất cao về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, làm
cho tiếng Việt ngày càng giàu và đẹp hơn. Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt không
có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn lớp từ vay mượn (Điều này là không thể, vì vay
mượn là một trong những qui luật của các ngôn ngữ). Bác Hồ đã dẫn ra: không ai
nói “nữ dân quân” bằng “ dân quân gái”, “du kích” bằng “đánh chơi”, “độc lập”
bằng “đứng một mình”…Mục đích của việc giữ gìn đó là dùng từ đúng lúc đúng
nơi, đúng đối tượng và gọi đúng tên sự vật hiện tượng cần thông báo kèm theo
thái độ của người nói, viết.. Nhưng thực tiễn hiện nay cho thấy việc dùng từ
trong đời sống có những vấn đề cần báo động :
- Lạm dụng ngôn
ngữ mạng ở lớp trẻ
- Lạm dụng tiếng nước ngoài khi không cần
thiết
- Dùng nhiều từ tục, từ bẩn thể hiện văn hóa
lùn và tư cách kém cỏi của người phát ngôn.
- Lạm dụng và dùng sai nghĩa của nhiều từ Hán -
Việt.
Riêng ở vấn đề thứ tư, chúng ta thấy:
1.
Người ta lạm dụng từ Hán- Việt không cần thiết. Phổ
biến hiện nay là nói “ phi trường, phi hành đòan, hải ngoại, hi hữu,mãn nhãn,
tận mục…”thay cho những từ thuần Việt dễ hiểu “sân bay, đội bay, nước ngoài,
hiếm có,no mắt, tận mắt…”
2.
Dùng từ sai do không hiểu nghĩa của từ. Có chương trình
thời sự của đài truyền hình trưng ương và địa phương không dưới 5 lần các phát
thanh viên đã đọc sai “ khuyến mãi”
thành “khuyến mại” (cũng như nhiều
người vẫn gọi “gái mãi dâm” thay cho “gái mại dâm”). Trong tiếng Hán “mãi”
nghĩa là mua và “mại” là bán. Như vậy khi muốn bán được nhiều thứ
hàng hóa nào đấy người ta hạ giá, tặng kèm sản phẩm khác thì phải nói là “khuyến mãi”. Và hiện nay cũng có những
người phụ nữ mua dâm thì vẫn có thể gọi họ là gái “mãi dâm”.
Tương tự, sau đây là một số từ đang dùng sai phổ biến:
- “Trạm xá”- “trạm” và “xá”
có cùng một nghĩa là “nơi ở tạm”
chưa có nghĩa là nơi khám và chữa bệnh. Cần nói “bệnh viện, bệnh xá, trạm y tế”
- “Mãn tính” (Vd: Viêm xoang
là một bệnh mãn tính.) “Mãn” là tràn
đầy; “mạn” là chậm. Cần nói những bệnh phát triển chậm, lâu là bệnh “mạn tính”
- “Cứu cánh”. Nhiều người
hiện nay dùng từ này với nghĩa là “phương pháp tối ưu, duy nhất” nhưng “cứu
cánh” có nghĩa hoàn tòan khác: mục đích cuối cùng. Ví dụ: Độc lập, tự
do là cứu cánh của cả dân tộc ta.
- “Quyết liệt” có nghĩa là phá hoại, đang được dùng theo nghĩa:
quyết tâm cao, hành động trên cả hăng hái.
- “Khuất tất” là uốn gối mưu lợi cá nhân, đang được dùng
theo nghĩa: mờ ám, không minh bạch
- “Việt vị”. “Việt” là vượt qua, “vị” là đứng, chỗ đứng. Nhiều trọng tài và người xem vẫn nói không có nghĩa
là “liệt vị”
- “Yếu điểm”: điểm quan trọng, lại được nhiều người dùng
theo nghĩa: nhược điểm, khuyết điểm.
- “Sở trường, sở đoản”: “sở” là của
mình, “trường”: dài, tốt, “đoản”: ngắn, xấu. “Sở trường”: những
điểm tốt, mạnh của mình; “sở đoản”: những cái yếu, chưa tốt của mình. Nếu sếp
hô hào: ”Mỗi người cần phát huy hết sở trường, sở đoản của mình” thì mới chỉ
đúng tới…một nửa.
Gần đây nhan nhản trên các báo là các kiểu:
- “Phim cổ trang”. “Cổ trang” là
trang phục cổ xưa.Chả lẽ nói: “ Tần
Thủy Hoàng, Hồng lâu mộng, Long thành cầm giả ca, Đêm hội Long Trì…” là những
phim trang phục cổ xưa? Chỉ có thể nói “phim về đề tài lịch sử”, phim đề tài
cổ”
- “Người đẹp Hoa ngữ”. “Hoa
ngữ” là Tiếng Hoa. Người ta không đem ngôn ngữ mà ai đó đang sử dựng để gắn
với các loại người trước đó. Chẳng hạn: Nguyễn Văn Án là người đàn ông Việt
ngữ(!)…
Trên đây là một vài nhận xét nhỏ, bước đầu, xin mạo
muội đưa ra để mọi người cùng tham khảo.
C A Đ
- Chử tiên sinh và Giáo sư nói tuyệt đúng. Mới lớn, ở thành phố quê hương, cạnh nhà, Ruchung tôi thấy có NHÀ THƯƠNG ĐỒNG HỚI. Đến nay Ruchung tôi vẫn thích gọi BỆNH VIỆN /XÁ là NHÀ THƯƠNG hơn. Tuy mới chỉ là danh xưng, nhưng Ruchung tôi đã thấy trong NHÀ THƯƠNG hiển hiện cả Y ĐỨC lẫn Y THUẬT quyện lấy nhau thật "biện chứng" vậy!
Trả lờiXóa- Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng như đời người Giáo sư a, nó có đủ SINH-TRỤ-HOẠI-SINH. Chẳng phải người ta gọi ngôn ngữ đang hoạt động là SINH NGỮ sao?
Nhất trí. Lập luận của Rục Hùng không những đúng mà còn trúng.
Xóa