28 tháng 7, 2013

Họp lớp chủ nhiệm

Thoạt đọc cái đầu đề có thể nhiều người không hiểu. Xin giải thích ngay, lớp chủ nhiệm có nghĩa là cái lớp học mà ngày xưa tôi không chỉ có vô đó dạy mà còn làm GV chủ nhiệm của lớp. Cái ngày xưa đó cách nay đã tròn 30 năm và nay tập thể cựu SV Ngữ văn khóa 2 ĐHSP Quy Nhơn ấy tụ tập nhau lại để họp lớp kỉ niệm 30 năm ngày ra trường. Nơi họp mặt là Hội An. Các cựu SV nguyên là cán bộ lớp như Lập, Miên... trong BTC  gọi vô với lời mời hào phóng: K2 bọn em đã lo cho thầy hết mọi thứ, thầy thu xếp ra dự nhé. 
Tôi vui vẻ nhận lời. 


Xuống Đà Nẵng lúc 15h30 chiều thứ 6 ngày 26/7, tôi được BTC đón về thẳng Hội An.
Một chương trình hội ngộ ngắn gọn nhưng kín mít những nội dung vui chơi, gặp gỡ đầy ý nghĩa.
Ngay chiều hôm đó tôi đã chứng kiến một cuộc châu tuần đầy ắp tiếng cười với những cái đập tay, ôm nhau chặt không thể chặt hơn tại Riverside Impression Homestay Villa. Rất nhiều người trong khóa học này từ ngày ra trường đến nay mới gặp lại nhau, không cảm động sao được.
Tôi đã dự nhiều cuộc họp lớp, nhưng phải nói rằng cuộc này là hoành tráng nhất. Cả ngày hôm sau là một chương trình du lịch, tham quan Cù Lao Chàm, rồi ra Hòn Chồng tắm biển, ăn hải sản.
Chiều lên cano về Cửa Đại nghỉ ngơi ở một nơi cực kì sang trọng là resort 5 sao Palm Garden.
Lại tắm biển với nằm dài trên bãi cát ngắm hoàng hôn Cửa Đại. Và tại nơi này tối hôm qua mới chính thức diễn ra những nghi thức của cuộc hội ngộ cùng với một tiệc buffet hải sản nướng ngon không thể ngon hơn. Tôi vốn thích ăn đồ nướng, nhất là hải sản nướng nên có thể nói đó là một đại tiệc.
Nhưng điều đọng lại sâu xa ở cuộc gặp mặt của lớp SV K2 này là những phát biểu thắm tình bè bạn. Đã có những giọt nước mắt lăn dài trên má khi nhớ về những bạn bè đã đi xa; có nhiều nhất là những tiếng cười giòn tan của các SV khi họ nhắc lại những kỉ niệm xưa ở khu kí túc xá OB trong ĐHSP Quy Nhơn 30 năm về trước. Từ chuyện buồn sang chuyện vui, hết chuyện nọ xọ chuyện kia cứ như là những câu chuyện dài bất tận không bao giờ dứt khiến tôi cũng vui lây và đôi lúc nghĩ mình cũng như là SV trong lớp này chứ không phải là thầy chủ nhiệm. Đúng là nói như trong câu thơ của Chế Lan Viên:
Những chuyện buồn buồn lại thấy vui vui
Những chuyện vui vui lại nghe nhơ nhớ.
Mà thực ra thì khoảng cách giữa tôi với SV khóa 2 này cũng không nhiều nhặn gì. Năm 1979 khi họ tựu trường ĐHSP Quy Nhơn thì cũng năm đó tôi vừa tròn 25 tuổi, tốt nghiệp đại học Vinh được phân công về dạy và cử làm chủ nhiệm lớp. May lắm tôi chỉ hơn những SV trẻ nhất của khóa 2 này 5-7 tuổi là cùng; thậm chí nhiều SV của K2  là những cán bộ đi học như Bảo Vân, Đinh Hài, Nguyễn Văn Lập, Mai Hữu Thu, Trần Thanh Phương… cũng sàn sàn tuổi tôi, có người còn hơn tôi vài ba tuổi. 
Thực sự tôi coi lớp SV khóa 2 này như bạn bè mình.

Ảnh: http://tuongngo.vnweblogs.com

Về họp mặt được mời phát biểu, tôi rất lấy làm cảm động bởi phải đi qua cả một chặng đường dài đến 30 năm, tôi mới lại có cơ hội được nói trước tập thể văn K2. Chỉ có điều khác là 30 năm trước, tôi còn là một GV trẻ, tóc xanh và chưa vợ lại mới chập chững vào nghề; nay thì… tóc đã bạc trắng mái đầu với không biết bao nhiêu là thăng trầm và xê dịch trong cuộc sống. Có điều lạ là trong suốt khóa học 4 năm của lớp văn 2A có đến mấy thầy làm chủ nhiệm thì nay, trừ tôi ra, còn lại những người khác đều đã về với thế giới bên kia. 
Tôi xem đó là một sự may mắn của cuộc đời mình.
Sáng nay rời Hội An chia tay K2, đi một vòng bắt tay và ôm hôn mọi người, tôi lại mong có dịp được trở về với họ.
Trên đường về lại SG, tôi vẫn như nghe vẳng bên tai tiếng nói cười ấm tình bè bạn, thắm nghĩa thầy trò của những cựu SV ngữ văn K2.
Không bao lâu nữa, sang cuối tháng 8 này tôi cũng sẽ đi Vinh họp lớp đại học kỉ niệm 34 năm ngày ra trường. Để rồi tôi cũng lại được sống với những cảm xúc  của thuở học trò như họ.

   
                                        Nơi đón tiếp 


                                      Nơi nghỉ ngơi và tổ chức cuộc gặp


Trưởng BTC - cựu lớp trưởng 2A Nguyễn Văn Lập (thứ 3 từ trái sang) cùng các cựu SV khác trong BTC như Đinh Hài, Bảo Vân, Mai Hữu Thu, Mai Xuân Miên... đều rất bận rộn


                               Cựu SV Kim Tân rất chăm thu hình


                                     Trò Lập và thầy 2 Minh (cựu phó khoa)


            Căn nhà giản dị trong resort Palm Garden nơi ở của tôi và lão 2 Minh.


              Sáng nay dậy, ra biển ngụp lặn về, tôi nằm đung đưa trên cái võng này


            Còn lão 2 Minh khoan khoái ngồi trước cửa nhấm nháp cafe rít thuốc lá


 Rồi lão mặc đồ đẹp vào và bảo mày bấm cho tao 1 kiểu thật hoành tráng. Tính lão này thế, thích hoành tráng.


                              Bấm luôn cho em Thu Hương lớp A một kiểu làm kỉ niệm


                                   Về lại Sài Gòn và hẹn ngày tái ngộ

       

24 tháng 7, 2013

Bộ cũng vụng

Vậy là chiều nay đã kết thúc việc chấm kiểm tra cho mùa tuyển sinh 2013.
Khác với mọi năm, chấm kiểm tra chỉ diễn ra khi chấm chính thức đã xong đâu đấy, năm nay cả hai việc chấm gần như diễn ra đồng thời. Tôi được Trường KTL giao phụ trách vụ chấm kiểm tra với một tổ chấm văn khối D rất nghiêm túc và thận trong.
Nhờ đi chấm TS mới thấy ở việc ra đề thi cũng như bản hướng dẫn chấm thi do Bộ GD-ĐT thực hiện có vấn đề dù không nghiêm trọng lắm.
Chẳng hạn Câu 1 phần chung cho tất cả thí sinh (Câu này 2,0 điểm):
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013), Nguyễn Tuân từng nhìn “Sông Đà như một cố nhân”.
Người “cố nhân” ấy có tính nết như thế nào? Cách ví von này có ý nghĩa gì?”
Đọc qua một lần tôi đã thấy cụm từ Người “cố nhân” có cái gì thừa. Thì đó chính là chữ “người” trong Người “cố nhân”. Trong đề thì trên, nếu bỏ chữ “người” đi thì có ảnh hưởng gì đến nghĩa của câu không. Rõ ràng là không. Bởi đã có “nhân” rồi thì thôi “người” là hoàn toàn có thể.
Trong trường hợp này, nếu là người chấm văn cho đề thi trên, tôi sẽ theo thói quen mà phê vào bên lề mấy chữ “dđ vụng” (diễn đạt vụng). 


Đó là chưa nói khi dẫn tên tác phẩm của Nguyễn Tuân  “Người lái đò Sông Đà”  với chữ “Sông” viết hoa, Bộ lại mắc thêm một lỗi chính tả nữa. Chữ “sông” trong tên tác phẩm của Nguyễn Tuân không phải là danh từ riêng và vì thế không tội tình gì mà phải viết hoa nó cả, chỉ cần viết hoa mỗi tên con sông đó - “Đà” là đủ.
Ngay khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi đã gõ vào thanh tìm kiếm của google tên tác phẩm trên của Nguyễn Tuân thì đã cho ra 71.000 kết qủa với chữ “sông Đà” trong đó chữ “sông” không viết hoa.
Xem sang phần Hướng dẫn chấm thi (tài liệu này chỉ có CB chấm thi mới có), cũng ở câu 1 trong đề thi trên, Bộ DGĐT hướng dẫn: “Câu này yêu cầu thí sinh tái hiện lại kiến thức và thông hiểu, lí giải về ý nhĩa của chi tiết Sông Đà như một cố nhân trong tùy bút Người lái đò Sông Đà; cần trình bày ngắn gọn, súc tích.”
Đọc đến phần hướng dẫn này, tôi đã dùng bút chấm thi khoanh ngay vào cụm từ “tái hiện lại” bởi vẫn thấy ở đây một lỗi “Dđ vụng” nữa.  Tái=lại. Vậy đã dùng “tái” thì xin miễn cho chữ “lại”.
Nói Bộ cũng vụng là vậy.  


Không phải là vạch lá tìm sâu nhưng với đề thi, nhất là đề thi tuyển sinh đại học thì không cho phép có những lỗi sơ đẳng như vậy. Nó phải là một chuẩn mực của văn phạm.
Nhưng thôi, cho qua. Vì thi thì cũng đã thi rồi, chấm thì cũng đã chấm rồi.
Cũng như mọi năm, nhờ vụ đi chấm tuyển sinh mà gặp lại nhiều bạn bè đồng nghiệp và học trò cũ. Nhất là gặp lại cái cổng trường đơn sơ giản dị có lẽ là vào hàng bậc nhất trong hàng mấy trăm trường đại học trên cả nước ta. Và đó cũng là cái cổng trường đại học mà tôi thích nhất. Nhìn nó không khác gì cổng của một công trường đang xây dựng.  Nó hoàn toàn khác hẳn với những cái cổng trường bạc tỉ phô trương kệch cỡm mà rỗng tuếch lại sặc mùi tham nhũng của rất nhiều trường đại học, cao đẳng mà tôi đã từng thấy, đã từng bước qua. Tôi nghĩ, với một trường đại học danh tiếng và không kém phần giàu có như Trường Đại học Kinh tế - Luật thuộc ĐH Quốc gia TP. HCM thì không thiếu gì tiền để xây một cái cổng bạc tỉ. Nhưng Trường KT-L đã chỉ làm một cái cổng đơn sơ như vậy bởi cái mà họ cần và đang có chính là chất lượng đào tạo mà rất nhiều đại học bạn phải kính nể và rất nhiều học sinh lớp 12 trên cả nước mơ ước được là SV của Nhà trường.

Nói chuyện này, tôi nhớ một lần xem TV đã thấy một điều khác lạ là ở Đại học Harvard lừng danh thế giới của nước Mĩ thì chẳng những bờ tường không có mà ngay cả cái cổng, dù là đơn sơ như cổng của trường Kinh tế - Luật TP. HCM, cũng không có nốt. 

Đó là một dụng ý sâu xa mà chỉ có những cái đầu tầm Harvard mới có được.  

Tôi kính nể trường ĐH Kinh tế - Luật TP. HCM cũng là vì thế.

                        
      Một tòa nhà rất hiện đại của trường KT-L với cái cổng trường rất giản dị

 

                                    Mặt sau cổng ĐH Kinh tế - Luật nhìn  từ lầu 6


                  Đối diện với ĐH KT-L là khu chế xuất Linh Trung với Samsung Vina

 

  Xem thêm: 

                        http://hatungson.blogspot.com/2012/07/en-hen-lai-lenlinh-trung.html

 

 

 

 

 

 

13 tháng 7, 2013

Chắc là con ba



Đang bữa cơm trưa, vợ tôi kể chuyện sáng nay đi chợ mua rau, thấy cô bán rau giao cho đứa con gái chừng 5 tuổi một rổ trái cây ngồi bên cạnh và dặn: Ai mua thì con bán 20 ngàn 1 kí nhen. Con bé nói lại: Sao đắt dzậy, bán rẻ chút đi. 
Cả nhà tôi nghe rồi cười thú vị. Bởi đó chính là sự hồn nhiên trong sáng của trẻ con, thứ mà càng lớn lên con người ta càng bị mất đi.
Con gái lớn bình luận: Con bé đó chắc con ba. Vợ tôi bảo: Không con thì cũng cháu ba mày.
Con gái út nghe vậy chỉ cười tủm. Tính con bé này thế, rất kiệm lời.
Tôi ớ ra. Vì sao phe đa số của nhà tôi lại gán con gái chị bán rau ngoài chợ Sơn Kì cho tôi. Giả sử tôi mà có con rơi thì cũng rơi ra ở trường đại học hoặc đài truyền hình là những nơi tôi đã có hàng chục năm làm việc chứ làm sao lại rơi ra ở ngoài chợ là môi trường xa lạ với tôi nhất.
Mãi lúc sau tôi mới tự hiểu ra. Ý là vợ con tôi lâu nay vẫn kết cho tôi cái tội chuyên mua đắt bán rẻ.  Tỉ như mua cái gì của ai cũng sợ mua rẻ của người ta; bán cái gì cho ai cũng sợ bán đắt cho họ. Bởi tôi thấy nếu làm ngược lại, mua rẻ bán đắt,  là có lỗi với thiên hạ.
Gần đây nhất tôi đã bị vợ con kiểm điểm vì cái vụ cho thuê nhà. Chả là có cái căn hộ bỏ không, đem cho thuê. Cả nhà đã thống nhất giá cho thuê là 4 triệu/tháng. Gặp bên cho thuê là hai vợ chồng trẻ với thằng cu con dễ thương nhìn dáng cũng không dư dật gì. Anh chồng cứ ấp a ấp úng muốn vợ tôi bớt cho vài trăm. Thấy hoàn cảnh bên thuê cũng tội và cũng có lí tôi phán luôn: Thôi, cô chú bớt cho các cháu 300, còn 3 triệu 7/tháng. Cặp vợ chồng trẻ nghe vậy sướng rơn lấy giấy bút ra kí hợp đồng thuê luôn 2 năm. Tôi đế thêm: Vậy là khôn đấy. Các cháu kí luôn hai năm, cô chú có muốn tăng giá cũng không được.
Bên thuê cười rạng rỡ như bắt được của còn vợ tôi lườm tôi như kẻ thù.
Về đến nhà còn bị hai con gái xúm vô nhắc nhở là lần sau mấy vụ tiền bạc ba không được lên tiếng, để mẹ quyết định. Vẫn biết thế nhưng nếu tôi không vội lên tiếng thì vợ tôi sẽ kiên định mức 4 triệu thì tội cho người ta. Người mà phải đi thuê nhà để ở là người nghèo rồi. Giúp họ chút đỉnh cũng tốt mà.
Với tôi, đó là lỗi đã thành hệ thống.
Mấy năm trước, có cái nhà ở Qui Nhơn, muốn bán tỉ mốt, nhưng ngồi nói chuyện với người mua tôi lại thay mặt họ bớt đi cho cái mốt để còn lại bán tròn 1 tỉ. Bởi vậy mà nói chưa xong họ đã đồng ý mua liền, làm giấy tờ đặt cọc ngay.
Có cái xe máy đã cũ muốn bán để thay xe mới, vợ tôi bảo 10 triệu thì bán được. Gặp người mua trả 9 triệu rưỡi, tôi bán luôn rồi bỏ thêm 500 tiền café ăn sáng cho đủ 10 triệu đưa cho vợ.
Đang mở cửa cổng, thấy cái xe đạp với người bán chổi với đủ các loại chổi đi qua ngân nga: Ai chổi không… Thấy tôi chăm chú nhìn, chị bán chổi dừng lại: Chú mua cho con 1 cái nhé. Tôi đang cần 1 cái quét lá cây trên sân thượng nên hỏi luôn: Cái này bao nhiêu. 35 ngàn chú, chổi tốt đấy, bền lắm. Mua xong cầm vào vợ tôi bảo: mấy con mụ đi bán rong là điêu toa lắm, chổi này ngoài chợ chỉ 30 ngàn là cùng. Ông chỉ dư tiền cho chúng nó.
Đại khái chuyện mua đắt bán rẻ của tôi là thế. Và vì thế mà tôi có thêm đứa con rơi là cô bé 5 tuổi con người bán rau ngoài chợ.    

       

8 tháng 7, 2013

Về quê ăn giỗ

Thứ bảy mới rồi là ngày giỗ bà nội tôi. Trước đó cả tháng ba tôi gọi vô bảo: Cả đời ba chưa thấy con về giỗ ông bà bao giờ, lần này giỗ bà nội con về thử một lần nhé. Tôi ngẩn cả người. Đúng là từ bé đến nay, tôi chưa hề một lần dự đám giỗ ông bà tôi thật. Vậy là dịp này tôi quyết chí về dù công việc ở nhiệm sở mà tôi chịu trách nhiệm đang lúc bời bời. Đám giỗ diễn ra vào thứ 7 nhưng đường về quê tôi chỉ tuần 3 chuyến bay, chuyến về rơi vào thứ 5, chuyến trở lại rơi vào thứ 2, có muốn về sát nút cho đỡ mất thì giờ cũng không được. Vậy là cả đi lẫn về mất 5 ngày.  Sáng thứ 5 tuần trước về quê, sáng nay mới vô lại được SG.

Không hẹn mà gặp, ba mẹ con cô em gái tôi sống ở Cần Thơ tranh thủ dịp hè cũng về quê ăn giỗ và ở lâu thăm cha mẹ lại bay cùng chuyến. Chiều thứ 4 cả 3 mẹ con lên SG ở chơi ngủ lại nhà tôi, sáng dậy cùng ra Tân Sơn Nhất. Thật là dịp vui hiếm có. Về đến nhà ba mạ tôi vui hơn cả Tết.

Ở quê tôi ăn giỗ vào buổi trưa. Vì thế cả nhà từ sáng tinh mơ đã dậy nấu nướng. Riêng tôi được mạ tôi giao nhiệm vụ cắt tiết và vặt lông 5 chú gà trống choai, một việc mà đã vài chục năm nay tôi không còn làm. Khi 5 chú trống choai đã khỏa thân sạch sẽ thì cái lưng tôi cứng đơ ra, tưởng như không đứng thẳng lại được nữa. Lần đầu tiên tôi được thực tế câu “nhà có đám” là như thế nào. Tất cả có 5 mâm. Con cháu trong nhà mất 3 mâm, 2 mâm mời bà con trong họ và hàng xóm láng giềng. Cụng li rôm rả vô cùng.

Sáng nay đi, ba tôi tiễn ra ngõ còn dặn: Tháng 8 tới là giỗ ông nội, con về lần nữa nhé. Ôi trời. Con xin ba. Mạ tôi thì nói: ba dặn vậy thôi, khi nào con rảnh thì về chơi, không nhất thiết phải nghe đâu.

Ba tôi năm nay đã 94 tuổi, mạ tôi 84 – những cái tuổi sóng sánh còn hơn cả bát nước đầy, chín còn hơn cả chuối chín cây. Tôi nghĩ thầm: nội chuyện tuổi tác của 2 cụ cũng đã đủ cho tôi bất thình lình phải về quê lắm rồi, cứ gì phải có đám giỗ ông bà nội nữa.
Ra đi vừa vui vừa ngùi ngùi. Không dám ngoảnh lại.  Hễ có dịp là tôi lại về không cứ gì đám giỗ.

                                                Ba mẹ con cô em gái ở TSN
              

80 phút sau nhìn xuống đã thấy Đồng Hới qua ô cửa. Tôi không biết cây cầu nhìn thấy từ trên cao này là cầu Dài hay cầu Nhật Lệ


             Đồng Hới đây rồi. Chụp cho ba mẹ con cô em gái một kiểu làm kỉ niệm 


                                             Thêm kiểu nữa


Anh em cậu cháu tôi trở về quê trên chiếc Airbus A321 của hãng Cambodia Angkor Air. Lần đầu tiên tôi đi trên một chiếc máy bay của Campuchia


                              Về tới nhà rồi. Vẫn cổng ngõ với ngôi nhà xưa cũ.


                 Vườn tiêu năm nay mạ tôi thu hoạch khá, được cả chục triệu đồng


                               Ban thờ đã sẵn sàng cho ngày giỗ


   Phòng ngủ ba mạ tôi đơn sơ nhưng vẫn có điều hòa nhiệt độ để chống chọi với gió lào


Thằng cháu con cô em út chưa đầy 24 tháng tuổi. Phía sau là ba tôi với góc đọc báo quen thuộc và tờ Nhân dân trên tay. Trong nữa là bé ô sin đang dọn dẹp.


                                 Góc bếp quen thuộc của mạ tôi


Chú mực 4 mắt, dù mỗi năm tôi chỉ về 1 lần nhưng chỉ mới bước chân vào ngõ nó vẫn nhớ vẫy đuôi chào


                                       Ô sin 18 tuổi cao 1m nên có tên là Còi

7 tháng 7, 2013

Hồn nhiên

 Nhàn đàm của Chử Anh Đào

          Nói nôm na, hồn nhiên là cách cảm, cách nghĩ và thể hiện cách cảm, cách nghĩ đó ra bên ngoài mà không rào đón, che đậy. Hồn nhiên thường có ở tuổi thiếu nhi- cái lứa tuổi thần tiên mới chỉ biết “trực quan sinh động”, chưa biết “tư duy trừu tượng” là gì.
          Ví như vài chuyện sau đây:
          Trong giờ “Tiếng Việt”, cô giáo yêu cầu học sinh ( lớp 4) giải nghĩa “lịch sự” là gì. Một chú nhóc lập tức đứng hẳn người lên, tay giơ thẳng cánh: “Thưa cô, “ lịch sự” là để “chim” ra ngoài ạ.” Quá đỗi bất ngờ nhưng cô giáo bình tĩnh và hỏi thêm tại sao lại là như vậy? Cậu bé trả lời: “Thưa cô, hôm qua cả nhà xem ti vi; bố em bận quần đùi, rồi mẹ em nói: trông ông lịch sự chưa kìa. Em nhìn theo tay mẹ em…”
          Cũng lại trong một tiết thao giảng có Phòng Giáo dục dự giờ, cô giáo ( đã có một tiết dạy “nháp” chiều hôm trước) gọi em học sinh người BahNar lên bảng. Sau khi nghe câu hỏi, cậu đưa tay lên miệng cắn móng tay và cười cười. Cô giáo giục: “Kìa, em trả lời đi chứ”. Cậu bé vừa cười cười vừa nói: “Thì cô giáo đã biết rồi mà còn hỏi.”
          Nhưng “đời thế mà vui” là vì người lớn cũng hồn nhiên!
          Truyện kí lịch sử “Hoàng- Lê nhất thống chí” chép về người anh hùng áo vải Tây Sơn Bắc bình vương Nguyễn Huệ ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, khi vua Lê Hiển Tông ngỏ ý gả cho công chúa Ngọc Hân, Bắc bình vương cả cười nói ngay: Ta vâng mệnh đại huynh ra đây giúp nhà vua lập lại kỉ cương phép nước; nay lấy vợ về, bọn trẻ nó cười cho. Tuy nhiên ta mới chỉ biết con gái Nam hà, còn con gái Bắc hà cũng nên thử một chuyến xem có tốt không. ( Đúng “ là người áo vải ở Tây Sơn” như trong Chiếu lên ngôi Ông thừa nhận. Ông làm công chúa như món quà dân dã, quê mùa bánh ít lá gai chợ Huyện quê ông mà mang ra thử)
          Gần đây, PleiKu có thêm bệnh viện tư nhân, khám chữa bệnh dịch vụ, đẳng cấp quốc tế. Ông anh tôi huyết áp cao và viêm xoang mạn tính. Nghe quảng cáo rầm rộ bèn từ bỏ “ ngôi nhà tình nghĩa” là BV Tỉnh- nơi đã cưu mang ông hàng mấy chục năm trời để đến cái bệnh viện “ đẳng cấp quốc tế” kia. Không thông báo giá cả nhưng hôm sau gặp nhau, ông khoe, ra chiều cảm động lắm: “ Thế mới biết người ta tài giỏi, làm ăn chu đáo, đối xử với bệnh nhân còn hơn ruột thịt. Đã kê đơn, bốc thuốc, về tới nhà, bác sĩ còn điện thoại hỏi thăm, dặn đi dặn lại về thời gian, số lượng thuốc uống phải thế này, thế này…Nếu bệnh chuyển biến chậm chúng tôi sẽ điều trị theo phác đồ mới của Mĩ, Nhật…” Đang oang oang vinh dự tự hào, ông liếc xéo về phía đường TTT nhổ một bãi nước bọt như sự kiên quyết “giã từ vũ khí”, “tiễn biệt những ngày buồn” là cái nơi đã cưu mang ông “bay qua cõi chết” mấy chục năm trời.
          Ông G.75 tuổi còn hồn nhiên hơn. Lâm râm đau bụng , ông lệnh cho con cháu kêu taxi qua mặt TTT, hướng quốc lộ 19 trực chỉ. Khám, xét nghiệm, hai ngày sau lấy kết quả. Rồi bệnh viện thông báo tình trạng khẩn cấp: đại tràng có chỗ bị ăn mòn. Nguy cơ thủng bất kì khi nào! Cả nhà tá hỏa tam tinh, nhất là khi nhìn vào thần sắc của một người già đã sắp về cõi… Nội soi ngay tức khắc! Gần nửa tháng điều trị, số tiền phải thanh toán gần bằng cả năm lương hưu. Mặc! Sá chi. “Người còn là quí kể chi bạc vàng”. Hôm đến thăm, ông lẩy bẩy bước về phía tủ gương, trịnh trọng lấy ra, nâng hai tay một tờ giấy đánh máy có dấu đỏ chói đưa cho tôi: “Đây là thư cảm ơn và lời hẹn gặp lại của cơ sở điều trị. Trước đây mình rất bi quan về nhân tình thế thái; nhưng qua cái đận này thì mình tin tưởng lắm. Cuộc đời này còn rất nhiều người tốt.”
          Phải! Cuộc đời này còn rất nhiều người tốt. Nhưng tôi ngạc nhiên và thấy thương thương vì sự hồn nhiên của ông về cái địa chỉ lòng tốt mà ông gửi gắm.
                                                                   PK. 1/7/13

                                                                        C.A.Đ

1 tháng 7, 2013

Tưởng nhớ một người Thầy

Ăn tối xong, đang đọc linh tinh trên mạng thì Nguyễn Trung Ngọc gọi từ Đại học Vinh:  Báo cho bạn một tin buồn là Thầy Phức vừa mất chiều nay. Thầy bị bệnh ung thư ra Hà Nội chữa trị không lành, bệnh viện cho về quê để đi. Về chưa đến nhà thì Thầy đã đi.
Tôi nghe tin dữ mà bàng hoàng. Vậy là một trong những người Thầy mà tôi ngưỡng mộ đã đi mãi rồi sao.
Thầy Nguyễn Cảnh Phức quê ở Nam Đàn, Nghệ An, là Thầy dạy Hán Nôm cho lớp đại học của tôi với những Nguyễn Trung Ngọc, Nguyễn Duy Xuân...  Học tiếp lên cao học, Thầy lại dạy tiếp Hán Nôm cho tôi và Chử Anh Đào... Dù dạy cả đại học và cao học, ngoài tấm bằng đại học, Thầy không có học vị tiến sĩ hay học hàm PGS, GS như nhiều giảng viên khác nhưng cả đám học trò chúng tôi rất ngưỡng mộ Thầy, coi thầy như một vị đại sư bởi học vấn uyên thâm của Thầy. Không có từ ngữ gì mà thầy không biết. Thầy như một pho từ điển sống của lớp cao học 6 chúng tôi hồi ấy.
Nhớ nhất là cứ sau mỗi buổi lên lớp, Thầy luôn dành 15 phút cho tiết mục mà Thầy đặt tên là Bạn hỏi chúng tôi trả lời (không hề giống mục Dân hỏi bộ trưởng trả lời vô thưởng vô phạt nghe đến phát bực của vê tê vê tẹo nào nhé). Trong 15 phút quí báu đó, chúng tôi hỏi Thầy về bất cứ từ ngữ đông tây kim cổ nào mà mình không giải nghĩa được hay còn hiểu một cách tù mù. Mà tiếng Việt ta thì thiếu gì từ mình vẫn nói hằng ngày nhưng khi cần cắt nghĩa cụ thể thì bí rì rị. Vậy mà chúng tôi hỏi tới đâu Thầy giải nghĩa cứ là vanh vách tới đấy. Tôi và bạn bè trong lớp phục lăn Thầy.
Nhớ nữa là những hôm làm bài dịch, Thầy đưa ra những bản Hán Nôm in đến mấy trang roneo. Chúng tôi dịch thì ít đoán mò thì nhiều. Nhiều từ bí dịch không được đoán không ra bèn làm bộ hỏi Thầy đây là chữ gì ạ, Thầy in mờ quá em đọc không ra. Thầy cười hóm hỉnh: Có mà đầu óc các anh mờ thì có chứ tôi in mấy khi mờ. Chịu khó suy nghĩ sẽ sáng ra đấy. Thầy nói vậy mà chúng tôi chẳng ai thấy tự ái hay giận hờn gì Thầy vì quả thực càng học lên cao càng tự thấy đầu óc chúng tôi cũng có những vùng mờ.
Bây giờ, trong đầu tôi có được những chữ gì một phần chính là nhờ cách dạy chân phương mà hiệu quả thiết thực của Thầy hồi đó.
Sau này ra trường, chúng tôi lại đi làm thầy và luôn nhớ về Thầy. Nhiều bạn đã viết bài về Thầy, tấm gương sáng đầy giản dị mà tôi không bao giờ quên. Xin đăng lại đây hai bài của Nguyễn Duy Xuân và Chử Anh Đào viết về Thầy Nguyễn Cảnh Phức như thắp một nén hương thơm tưởng nhớ Thầy.
Cầu mong Thầy được an giấc ngàn thu. 

                            
                                  Thầy tôi 
                                           Nguyễn Duy Xuân
Kính tặng thầy Phức, cô Tứ

Biết thầy từ lâu nhưng mãi đến sau này khi vào Đại học Vinh tôi mới được gặp thầy. Đó là một buổi chiều mùa đông sau khi nhập học xong, cữ vào dịp cuối tháng mười một tây, thằng bạn cùng làng bên khoa Toán đến kí túc xá rủ tôi tới khu cán bộ thăm thầy. Lúc bấy giờ, trường mới chuyển từ nơi sơ tán về được một thời gian nên cơ sở vật chất còn tạm bợ. Trừ giảng đường đúng hơn là các phòng học được xây theo kiểu nhà cấp 4 còn thì nhà ở của cán bộ, giáo viên và kí túc xá sinh viên đều làm bằng tranh tre nứa lá. Trên   mỗi dãy nhà, ba bốn cặp tre to giằng chéo qua mái chắc là để chống bão, đầu mỗi cây tre nhô cao như mũi chông, xiên thẳng lên bầu trời. Có lẽ đấy là hình ảnh ấn tượng đọng lại trong kí ức một thời sinh viên của tôi về ngôi trường đại học trên mảnh đất mà trước đó không lâu còn nóng bỏng khói lửa chiến tranh.
Nơi ở và làm việc của thầy là một nửa gian nhà được ngăn bằng phên nứa, vừa đủ để đặt cái giường một, cái tủ gỗ nhỏ và bộ bàn ghế. Gọi là bộ bàn ghế cho oai nhưng thực ra chỉ mỗi cái bàn mộc và một cái ghế tựa. Giá có thêm vài ba cái ghế nữa thì cũng chẳng biết để vào đâu. Khách đến chơi thì cái giường một bỗng biến thành “xa lông” bất đắc dĩ.
Tôi để ý thấy dưới gậm giường chất đủ thứ, nhưng ấn tượng nhất là mớ củi khô. Hèn gì lúc sáng ngồi trong lớp học, qua khung cửa sổ nhìn ra khu bãi hoang bên cạnh, tôi thấy bóng dáng một người đàn ông, đầu đội nón lá, lúi húi gom nhặt từng cành cây dại đã khô. Đó là thứ mà có lẽ thầy là người duy nhất ở trường này chịu khó tìm kiếm làm chất đốt, bởi thời bao cấp đến que củi cũng phải phân phối bằng tem phiếu. Chúng tôi hỏi thầy sao không ăn cơm tập thể cho tiện. Thầy bảo cái bụng mình nó khó tính lắm, cơm thì khi sống, khi nhão, bo bo, bắp hạt thì nhá không được, hại cái dạ dày quá nên đành phải chịu khó nấu lấy thôi. Lúc ấy tôi chỉ là một cậu bé ở quê mới ra tỉnh, cái sự hiểu biết còn nông như đít đĩa, sau này ngẫm lại mới thấy xót xa. Thời ấy, cả hàng xã, hàng huyện mới có một thầy giáo dạy đại học, thế mà cuộc sống của các thầy sao cơ cực quá. Đó là những kỉ niệm thật khó phai mờ trong cuộc đời tôi. Sau này chúng tôi tiếp bước thầy, lại cũng cảnh cơm niêu nước lọ. May mà đất nước đã kịp đổi thay.
Làng tôi chỉ cách làng thầy một con đê Tả Lam. Làng thầy ở phía ngoài bãi sông, gọi là xóm “Vụng” bởi cạnh làng có cái đầm to tướng, mùa hè nở đầy hoa sen. Buổi trưa nào bọn trẻ chúng tôi cũng rủ nhau đi tắm vụng, khi về lấy lá sen làm nón che cái nắng gay gắt tháng sáu và thế nào cũng tìm cách trộm cho bằng được nếu không là một bông hoa, thì cũng là một gương sen đã ních hạt. Tôi đã ra nhà thầy đôi ba lần. Đó là những lúc mẹ tôi dẫn tôi đến nhờ ông cụ cắt may khi thì quần áo mới để đón tết, khi thì cái xắc đựng sách vở chuẩn bị vào năm học mới. Con đường ngoằn nghèo rụng đầy lá tre khô và hình như có leo một con dốc nho nhỏ bởi những ngôi nhà ở xóm Vụng thường phải đắp cao nền để tránh lũ. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông cụ thân sinh của thầy. Đó là một ông lão dáng tầm thước, nho nhã, lúc nào cũng bận quần áo lụa, đi guốc mộc. Nhìn ông râu tóc như cước, gương mặt hơi gầy bởi tuổi già nhưng phúc hậu, tôi cứ ngờ ngợ. Về tới nhà, tôi lục tìm cuốn sách của nhà xuất bản Kim Đồng lần giở các trang. Ủa, sao lại giống ông thế nhỉ ?
Tôi không biết gì nhiều về gia đình thầy, vì lớn lên là đã xa nhà, xa quê biền biệt cho đến hôm nay, nhưng tôi hiểu đó là một gia đình gia giáo. Tôi cảm nhận được cái nho nhã, hiền từ, phúc hậu từ ông bà cụ thân sinh hiển hiện trên gương mặt, tính cách của những người con trong đó có thầy. Có cái gì trùng hợp chăng khi sau này thầy chọn cho mình nghề giáo và hơn thế nữa là giáo viên dạy Hán-Nôm.
Bây giờ không còn xóm Vụng nữa. Phong trào “thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang sơn” những năm bảy tám mươi của thế kỉ trước đã đưa cả xóm vào trong đồng. Nhà thầy giờ gần nhà tôi hơn. Thi thoảng về quê, tôi lại sang thăm thầy cô. Thời gian in dấu trên gương mặt hai người nhưng nét nho nhã truyền thống của gia đình và chất nhà giáo vẫn đậm trong mỗi lời nói, cử chỉ. Tôi học thầy những năm tháng ở đại học nhưng tôi còn được học cô hồi ở phổ thông. Cô là giáo viên chủ nhiệm khi tôi vào lớp 8. Có lẽ chất văn trong huyết mạch của tôi được truyền từ cảm hứng của cô – một giáo viên trẻ mới ra trường, qua những bài giảng văn thuở ấy ?
Nhớ lại cách đây mấy năm, thầy vào thỉnh giảng ở Đại học Tây Nguyên. Ấy là khi thầy vừa mới nghỉ hưu, anh bạn tôi làm chủ nhiệm khoa Sư phạm bên ấy muốn tạo điều kiện cho thầy kết hợp chuyện giảng dạy với thăm thú Tây Nguyên. Hôm vợ chồng tôi đến thăm, thầy khoe bữa nay nghỉ hưu rồi, thư thả mới có dịp đi xa thế này. Đây là lần đầu tiên mình vô Tây Nguyên đấy, mà cũng là lần đầu tiên được đi máy bay. Chao ôi, tôi thầm nghĩ, cả một đời cống hiến cho sự nghiệp trồng người, không một chút bon chen, tính toán, đến khi nghỉ hưu rồi mới được nếm chút ít hạnh phúc mà lẽ ra một giảng viên đại học lâu năm như thầy phải được hưởng từ lâu, từ khi đang còn trên giảng đường đại học.
Thầy lúi húi mở cặp sách, đoạn rút ra một tập giấy báo và nói với tôi, mình có cái này cho cậu. Thầy vẫn giữ cách xưng hô với học trò như thế, như cái ngày chúng tôi còn là những cô cậu mới ngơ ngác nhập trường. Tôi đón lấy và mở xem. Thì ra đây là những tác phẩm của thầy đăng trên tạp chí chuyên ngành. Có những bài vừa mới đăng trước lúc  thầy vào Tây Nguyên không lâu. Tôi xúc động thật sự, bởi ý nghĩa sâu xa của món quà độc đáo này. Thầy không tự đề cao mình, bởi đó không phải là bản tính của thầy. Cũng không phải thầy tặng tôi quà vì thầy không nghĩ thế. Thầy muốn gửi đến học trò một lời nhắc nhở mà khi xưa thầy đã từng nói trên bục giảng: làm thầy không bao giờ được tự bằng lòng với chính mình. Sau này đọc, nghiền ngẫm những bài viết ấy của thầy, tôi mới cảm nhận được cái sắc sảo, thâm thúy của một người am hiểu văn tự, văn hóa của ông cha, và càng thấu hiểu cái “thông điệp” mà thầy ngầm nhắn gửi cho mình. Ngày trước khi chớm tuổi thanh xuân, tôi học thầy những tri thức để hành nghề. Bây giờ ở cái tuổi “tri thiên mệnh” tôi vẫn học thầy, học những điều tưởng như mình đã biết. Thế hệ những người như thầy là gạch nối giữa quá khứ và hiện tại. Những con người như thế đang vắng bóng dần trên các giảng đường đại học. Tri thức và nhân cách, đấy là tài sản vô giá mà thầy muốn trao lại cho các thế hệ học trò cả khi không còn đứng trên bục giảng nữa.
Chúng tôi tôn kính và khâm phục thầy, không phải ở cái oai của học hàm, học vị. Thầy không phải giáo sư, cũng không là tiến sĩ. Những thứ cao siêu ấy có người đeo đầy mình nhưng vẫn không che lấp được khoảng trống về tri thức và nhân cách. Có lẽ những nhà giáo còn phảng phất một chút “gàn” của ông đồ xứ Nghệ xưa như thầy không thích cái sự phô trương. “Hữu xạ tự nhiên hương”. Thầy chỉ muốn được là chính mình. Khi nghỉ hưu vì tuổi tác, thầy vẫn là một nhà giáo, “nhà giáo nhân dân” đúng nghĩa của cụm từ này. Rời xa phố thị ồn ã, thầy lại về với làng quê máu thịt của mình, về với những người nông dân chân chất, quê mùa, chia sẻ câu chuyện với hàng xóm qua đọi nước, củ khoai nhưng không quên giành thời gian cho cái nghiệp mà thầy đã đeo đuổi suốt đời. Lại nghiên cứu, viết bài rồi lại lọ mọ ra bưu điện gửi đi các báo.
Ngày Nhà giáo năm nay, thầy sắp bước vào tuổi “xưa nay hiếm”, cái tuổi đáng lẽ ra chỉ biết vui vầy cùng con cháu và chén rượu cuộc cờ với bầu bạn. Nhưng không, thầy vẫn như con tằm miệt mài rút ruột nhả tơ, cháy hết mình cho cuộc sống.
Tết Nhà giáo
Tháng Mười Một, Nhâm Thìn
Nguyễn Duy Xuân

Thầy của Hà Tùng Sơn và tôi

                                            Chử Anh Đào
          
        Kính tặng thầy Nguyễn Cảnh Phức
 
 Đã là xa lắm rồi các gia đình ở phố không còn dùng bếp củi, bếp than, bếp dầu mà dùng bếp điện, bếp ga tiện lợi. Nhưng sáng nay- một buổi sáng dã ngoại đầu mùa khô, khi mà cành lá chúng tôi vun lại để nhóm lửa còn sũng nước của cơn mưa cuối mùa mấy ngày trước lâu chịu bắt lửa, khói mù mịt, cay nồng xộc vào mũi tôi như một kỉ niệm chưa xa. Và tôi nhớ tới thầy.
Thầy quê Nghệ. Dáng người rất phổ thông, bình thường, không gì đáng để ý, người đời dễ quên ngoài cặp mắt tinh anh, xếch và luôn ánh cười. Cái cười bằng miệng bị khóa lại bởi đôi môi mím chặt thì lại toát ra bằng mắt, đa nghĩa gấp nhiều lần. Quanh năm thầy đánh đôi giày cô sơ ghin- một loại giày sĩ quan cao cổ của Nga rất dày và cứng đi cùng năm tháng. Quần áo ka ki màu cỏ úa xoàng xĩnh không là ủi. Chỉ có cái túi quần luôn căng phồng ( sau này chúng tôi mới phát hiện ra thay vì là mu soa thì Người nhét cả cái khăn mặt vào đấy. Đều đặn chiều thứ bảy thầy dắt xe đạp “ Thống Nhất”- cái xe mà “ tất cả mọi thứ đều kêu, trừ cái chuông”, xà cột bên hông, lỉnh kỉnh một ba lô căng phồng sau poocbaga lên đường về quê. Trông thầy giống một ông cán bộ chính sách ở huyện vùng cao, chả có dấu hiệu gì của trí thức hạng nặng, giảng viên một trường có uy tín đứng đầu miền Trung và danh giá trong cả nước.
 Thầy dạy chúng tôi môn Hán- Nôm. Thầy bảo: người ta nói Hán- Nôm là tử ngữ. Nhưng cả một nghìn năm di sản văn hóa ông cha nằm cả đấy. Chói lọi như “ Nam quốc sơn hà”, “ Hịch các tì tướng”, “ Bạch đằng giang phú”, “ Bình Ngô đại cáo”…đều viết bằng chữ Hán. Giờ đây các cụ Bùi Duy Anh, Lê Thước, Bùi Kỉ…đã về cõi. Lại cái đận chiến tranh biên giới 1979, ghét bọn Tàu xâm lược quá, ta giải thể các khoa Trung văn ở các trường đại học. Nhiều thầy giáo phải giải nghệ. May lắm thì về làm bảo vệ kiêm đánh trống ở trường cấp 3…Thành ra môn này bây giờ có một khoảng trống. Các ông là những người bây giờ góp phần lấp đầy khoảng trống ấy. Chúng tôi sợ. Sao lịch sử lại chọn những thằng chân đất mắt toét làm điểm tựa? Lại đè đầu cưỡi cổ mà giao nhiệm vụ nặng như núi Thái Sơn cho chúng tôi? Nhưng nói gì thì nói, môn này thực sự là nỗi kinh hoàng của những người học. Hết thảy mọi người đều toát mồ hôi hột vào mùa đông và run như cầy sấy vào mùa hè bời bời gió Lào dội lửa xuống muôn loài, nóng tới mức “ đực – cái cũng không nghĩ tới nhau” ( Nguyễn Tuân)- mà méo mồm vẽ chữ, y như AQ của Lỗ Tấn khi xưa cố khuyên một vòng tròn thay chữ kí trước khi lên giàn xử giảo. Chúng tôi viết chậm, viết sai, thầy không cáu giận, coi thường mà ân cần chỉ bảo. “ Không sao cả, Thánh cũng có lúc nhầm, lúc sai”- thầy an ủi những Thi, những Hạnh- hai ông “ vua quên” và “ quan quên” của lớp. Thầy đem chuyện Ngu Công dời núi để ngụ ngôn về sự kiên trì. Tất cả những “ Tử viết”, “ Tử Cống vấn viết”, “ Thế thiên hành hóa”, “ Dư thường văn chi”, “ chi, hồ, giả, dã…” rối như canh hẹ, như chông như chà, như ngổn ngang qua trầm kích triết được thầy diễn giảng bằng một thữ ngôn ngữ tiếng Việt cực kì trong sáng và dễ hiểu. Những đầu óc u tối “ mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” của chúng tôi được khai sáng, những con ếch ngồi đáy giếng được mở rộng tầm nhìn, được ngụp lặn tha hồ trong cái mênh mông bể Sở của tri thức cổ văn dân tộc. Thầy thổi hồn vào các con chữ đã có mấy nghìn năm tuổi để chúng tôi thêm hiểu cha ông mình.
Thầy là người rất chăm chỉ nhặt nhạnh. Tất cả những thứ trên đường đi, từ mẩu dây thun, cái đinh, con ốc, bù loong…đều không thoát khỏi con mắt và đôi tay thầy. Thầy dồn nhiều công sức tới mức chúng tôi nghĩ: hễ cứ thấy ai lúi húi bên đường đi thì ắt hẳn là thầy. Có lần bắt gặp thầy đang khom khom xúc rửa mấy cái bì ni lon bên vòi nước công cộng, thầy không lấy làm mắc cỡ, cũng chẳng thanh minh thanh nga mà cảnh báo: “ Các cậu đừng cười tớ. Cười người hôm trước hôm sau người cười. Sẽ có lúc phải cần đến nó.” Mấy hôm sau anh Thi đóng rương cho cô bồ ở lớp đại học đến phòng thầy xin đinh thật! Thầy định nghĩa củi là tất cả những gì cháy được mà không độc. Trung thành với quan niệm này, thế giới trong mắt thầy là thế giới củi. Có lần tôi gặp thầy ở chợ Quyết về, một tay là cái túi xác rắn, một tay là tòng teng một đoạn tre khô, vừa đi vừa ngửa mặt cả cười.  Ngày ra trường, bạn Thân trong lớp cưới vợ, thầy mừng đôi uyên ương một bó củi tiết kiệm tổng hợp. Cảm động biết bao. Bó củi thấm đẫm mồ hôi và nhọc nhằn công sức của bao tháng ngày gom góp không mệt mỏi của thầy.
 Thầy nhìn tất cả các khía cạnh của cuộc sống dưới góc độ của cái hài. Những năm của thập niên 80 của thế kỉ trước là những năm cơ khổ. Con người như đang sống một kiếp nào khác chứ không phải là người. Tháng bốn lần dậy từ một, hai giờ sáng xếp hàng mua lương thực. Ba phần tư là bo bo- cái thứ ăn vào, lúc thải ra còn làm được thức ăn chăn nuôi gà vịt nữa. Thầy chế bo bo thành năm món: luộc, hấp, rang, xào, cháo. “ Cứ như thế rồi hết tuần, hết tháng, hết năm…hết đời!” Một lần thầy trúng quả được phân phối mua một cái áo may ô ba lỗ. (Thời ấy “ bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới được phần may ô”. Được phân phối áo là cả cái lộc lớn) Áo, cái nào chẳng giống cái nào mà thầy lật qua lật lại, chọn, lựa, tuyển cả tiếng đồng hồ. Cô bán căng tin sốt ruột: “ Ông này phiền quá”. Thầy bảo: “ Thì mình tên là Phức mà lại.” Lớp có cô Ngọ kiểm tra không làm được bài, năn nỉ: “ Thầy thông cảm. Em còn bận con cái.” Thầy cười cười: “ Cô bận con đực thì có.” Đến chơi nhà ông tổ trưởng, bí thư chi bộ. Vòng vo thế nào lại đi vào chủ đề vĩ mô: sự tiến hóa của loài người qua các thời đại. Đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đồ sắt…thì đúng rồi. Thầy bổ sung thêm: “ Theo tôi thời đại này là thời đại đồ…đểu” Ông kia mời thầy ra khỏi nhà. Người ra đi đầu còn ngoảnh lại: “ Thấy chưa, tôi nói có đúng không?” Tóm lại lẽ ra đáng khóc thì thầy lại cười. Cái cười thể hiện tư thế chủ động của người đứng cao hơn hoàn cảnh, vượt lên trên hoàn cảnh. Nó đem lại một sức mạnh nào đấy để tự tin mà sống.
Mười lăm năm, đúng bằng một đời Kiều lưu lạc, tôi ra Vinh chuẩn hóa cao học.Vượt qua những vận đổi sao dời, bãi bể nương dâu, thầy tiếp tôi bằng nguyên vẹn nụ cười thủa trước. Vẫn gian nhà tập thể 9 mét vuông. Vẫn bể nước gắn bằng năm viên ngói xi măng bên dãy bếp thấp le te mịt mù những khói phía trước. Thầy nắm chặt tay tôi hồi lâu rồi hai thầy trò cùng đi chợ. Thầy giành trả tiền. Ví của thầy không ốm o còm cõi như trước mà ninh nich những tờ hai chục, năm chục. Mua hết các thứ, còn năm nghìn hành tỏi mà thầy lại đi hai sạp hàng khác nhau. Tới nhà, đã gần 12 giờ trưa, trời chang chang nắng. Ngay cổng sau cũng có bia bán nhưng thầy lại làm một cuộc trường chinh gần một cây số nữa. “ Đó là chỗ quen, rẻ được cả nghìn đồng một chai”- thầy bảo thế.
          Trong xoong còn gần nửa tô hoa chuối xào lòng lợn. Thầy do dự và hỏi: Đ. có dùng được món này không? Tôi thưa: thầy coi em là loại người nào? ( Tôi dứt khoát không như một số người hiện nay khi thăng quan tiến chức lại kiêng món này món nọ, phải dứt khoát không ăn một món nào đấy mới thành nhân cách lớn lao(!)
Lai rai nhậu. Thầy nói chuyện vui rằng mấy năm nay dễ thở hơn vì có việc làm thêm: đi dạy ở các trung tâm, phiên dịch. Nhưng tiền thì bao nhiêu cho vừa, vả lại chưa chắc có tiền đã sướng. Năm ngoái mua lại cái Drem cũ, máy lì lắm, chỉ được cái nổ rất to, không cần còi. Ống pô thì phun ra cả khói và lửa. Về quê như mang cả âm thanh đạn bom hồi chiến tranh phá hoại. Tháng trước tông phải bò nhà ông chú. Bò gãy cẳng, người sái vai. Thôi thì cứ xe đạp vừa túc tắc vừa thể dục cho nó lành… Chuyện vui mà giọng thầy nghe xa vắng, như có trộn cả “ thế tứ giao di” trong đó.
 Khi tôi khoe mình cũng có những ham muốn chưa nguội lạnh, viết được mấy cuốn sách và mấy công trình nghiên cứu, thầy khen giỏi và buông một câu như tiếng thở dài: “ Mình bây giờ lão giả an tri rồi”. Nghe mà thương quá. Mình nói: “ Em vẫn làm theo lời cảnh báo của Lão Tử mà thầy dạy chúng em: họa, không gì lớn bằng không biết đủ”
 Ngẫm ra có những cái tốt đẹp trên cõi đời này tồn tại rất lâu bền. Không có thời gian và lực lượng thù địch nào tàn phá nổi. Thầy tôi là một trường hợp vậy chăng?
 Khói lên, bên phía trời xa kia hình như là bóng thầy tôi đang lặng lẽ tỏa ngời./.
                                               Plei Ku. Viết lại 11-11-2011
                                                                C.A.Đ