HTS: Nguyễn Xuân Sùng là bạn tôi cùng đi lính thời chống Mĩ về. Chúng tôi học cùng lớp
đại học ở khoa Văn ĐHSP Vinh những năm sau chiến tranh. Sùng hay làm thơ
và thơ Sùng thuộc loại hay. Nhớ hồi còn học chung lớp 16D, tôi đã phát ghen với
Sùng khi mỗi bài thơ hắn vừa viết xong đều được bọn con gái trong lớp chuyền
tay nhau túm tụm đọc thỉnh thoảng còn cười rú lên thích thú. Với bọn con gái
lớp tôi hồi đó, thơ Sùng hay hơn thơ Tố Hữu. Đến mức đứa nào cũng
thuộc ít nhất một vài bài thơ của Sùng.
Nay thì Nguyễn Xuân Sùng đã là một ông giáo về hưu và có chân trong Hội VHNT Quảng
Bình, là một hội viên tích cực vì thơ và cả văn Sùng vẫn ra đều trên các
báo và tạp chí.
Nhờ cái vụ hội viên của hội văn nghệ cấp tỉnh này mà Sùng cũng
vi vu đây đó ra phết. Năm ngoái Sùng đi trại viết Đà Lạt đến cả chục ngày. Năm
nay thì như Sùng gọi vô cho tôi hôm qua, mới đi trại viết Đại Lải về, cũng cả
chục ngày ăn chơi du hí. Những chuyến đi không mất tiền túi lại còn được trọng
vọng vì là đi để lấy cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Và sản phẩm là những áng thơ
văn như châu phun ngọc nhả.
Chiều nay tôi đang làm việc ở trường thì email của Sùng đến với một
chùm thơ và một truyện ngắn. Thơ văn Nguyễn Xuân Sùng chủ yếu vẫn mang đậm âm
hưởng thời hậu chiến của
một cựu chiến binh đau đáu với thời cuộc. Tôi đọc và thấy mừng vì bạn mình vẫn còn tích cực nhập thế trong
lúc cả xã hội với nhiều thế hệ đang vô cùng chán chường vì nhân tình thế thái.
Trân trọng giới thiệu Nguyễn Xuân Sùng cùng các bạn.
CÂY XANH Ở TRUÔNG BỒN
Chúng mình
chẳng thể
cách chia
vẫn chung lán
chung con
đường
năm ấy
vẫn giữa
truông
hun hút gió
lào
nắng cháy
ngày đêm
xẻ đá
san đường
Nơi chúng
mình nằm
tơi tả đạn
bom
đen thẫm hạt
muồng
mảnh găm
hương ổi
khóm me
xanh
giữa ngày
bom dội
trái sim còm
sót lại
cuối bờ
truông
Các em tôi
thấm lòng chị
vô cùng
trồng những
ổi
muồng, sim
bên bồ đề
sanh, si
sum suê xanh
bóng
cây vạn tuế
trang nghiêm,
đồng vọng
niềm vui…
hiền
dịu,
thảo thơm,
Hoa trái bốn mùa
Đại Lải, 6/
2015
SAO KHÔNG LÀ ĐẠI LÃI ?
Có nhầm không
sao lại là
đại lải
ta kiếm tìm …
thời gian ngưng ,
phòng văn
ngộp thở…
bật tung cánh
cửa
ngơ ngác
bút nghiên
Gió ùa vào
hương thơm ùa
vào
ngất ngây
nắng sớm
vi vút mặt hồ
nghiêng
bóng
thông xanh
hoa dẻ
vàng
líu ríu bước
chân
có nhầm không
lạc vào xứ lạ
ta thấy mình
giàu quá…
Đại Lải nào
cho anh?
Đại Lải em
Thi tứ bật
lên
Bài thơ
Đại Lải.
Đại Lải, 6/6/2015
BÀI THƠ KHÓ ĐẶT TÊN.
Nghìn cây số
háo hức
thăm
chiến trường
xưa
về đơn vị cũ
Đường lạ
nhà lạ
người lạ
lạ
lạ
lạ
rất lạ…
Ào ào, ào
Ào, ào, ao...
Trời sập
xuống,
Mưa
Cơn mưa
Mưa ngập lối
Mắt ướt nhoà
Ba lô
Nhấp nhô suối
Đèo
Đường trơn
Bom dội
Dép tụt quai
Nghiêng ngã
tiếng cười
Mưa cao
nguyên
Ấm lòng tôi.
Cơn Mưa Đồng
Đội
Pleiku 2014
Đại Lải 2015
TRƯA ĐỒNG LỘC
Chiếc AD6
trơ khấc một mình*
lặng im
giữa Ngã Ba Đồng Lộc
Bom
đủ cở
nhỏ to
kết thành bè
chứng nhân tội ác
Những hố bom hoẳm sâu
giương mắt
tròn
không thể tin
bốn mươi năm
chưa lấp đầy nỗi đau
Cô thanh niên xung phong
ngày đêm phá đá mở đường
thông xe ra tiền tuyến
vẫn kiên gan
Mặc
bom
dội trên đầu
Cây trên núi Trọ Voi kết thành rừng
vượt lên trong đạn bom,
bạn bè cùng đất cằn sỏi đá
rì rầm kể chuyện
Tháng Năm...
------------------------------------------------
(*) AD6 là loại máy bay ném bom của Mỹ
Ngã ba Đồng Lộc tháng 3
Đại Lải tháng 6, 2015
GIỮA TRƯA VƯỜN THÚY
(Bao
giờ cây súng rời vai
Nung
vôi, chở đá tượng đài xây nên
Vương Trọng)
Ngày Trọng
về, xơ xác hàng cây
Nấm mộ sè sè
ngọn cỏ
Đất nước còn
chiến chinh
Cụ đằm nỗi
đau nhân thế
Hẳn không
trách chúng mình chưa xây tượng trồng hoa.
Bao năm rồi
Trọng đã trở
lại chưa
Vườn Thúy
giữa trưa lắng tiếng chim gù vang xa đồng nội
Dung dị giữa
quê nhà
thân thương
quá đổi
Cây Nóng, cây
Xoài mang gió tự ngàn xưa*
Con tìm về ví
dăm,đò đưa
Câu ghẹo, câu
xoan…Nguyễn** bỏ quên trong khúc hát
“Cô gái
Trường Lưu” ở xa ta chưa được gặp
Hẹn một ngày
cùng Nguyễn vào thăm.
Chỗ Nguyễn
nằm thành nơi gặp gỡ tri âm
Bè bạn bốn
phương nhắc
cuộc đời bể
dâu của Nguyễn
Đọc câu Kiều,
bao dạt dào cảm mến
Thương kiếp
người tài hoa
Chuông đá ngân trong sâu thẳm lòng
ta
Vọng lời của Nguyễn
Có điều chi
Mà trên cây
Oanh ríu ra trò chuyện
Bên án thư
Chiếc quạt tre
Phe phẩy,
Nguyễn cười
Xuân Mai, 6 /2015
(*) Là loại cây được
trồng khi làng làm nhà để đón thi nhân về
ĐỌC NHẬT KÝ CHIẾN SỸ
(Tặng Hoàng Đình Bường)
Lật giở từng
trang nhật ký
Còn vương bụi
đỏ chiến hào
Nòng súng vặn
mình
máu ứa
Từng trang,
Từng trang,
Nhức nhói
quặn đau
Đêm
Tiếng cuốc
băm
vào ruột đất
Tiếng cuốc
bổ
vào buồng tim
Từng nhát,
từng nhát
khô khốc
Huyệt
đào cho mình
thâu đêm
Ôm súng ngồi
chờ giặc tới
Ấm lưng mảnh
đất chiến hào
Nhớ về quê xa
Hỡi mẹ
Chờ con khắc
khoải,
Lòng đau
Con biết
giá từng tất
đất
Trả bằng tuổi
trẻ
máu xương
Đất của ông
cha
Quyết giữ
Chúng con
không nghĩ gì hơn
40 năm
Trang nhật ký
chiến trường
Trị Thiên
không nguôi
nỗi nhớ
Đồng đội về
trong giấc ngủ
Nghiêng
nghiêng
trăng dọi chiến hào
Quảng
Bình 4/ 2015
Đại
Lải 6/ 2015
CHÙM HOA KHẾ
Quả cầu lửa
Trôi
miền Trung chìm
trong thiên tai thảm hoạ
cây cỏ
còi cằn, khô úa
Lạ không,
hoa khế vườn ngoài
Lá quắt lại
cành cong, gồng mình
Nín
từng hơi thở
Vỏ sần sùi
Đợi
Ngày tím ngắt
Chùm hoa
Đời được gì
Ở tôi
Có ai đợi chờ
hoa khế
mong giữa ngày đồng khô
nứt nẻ
món
tép đồng
và
vải
quả khế chua
NXS
27/6/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới