8 tháng 9, 2012

Bình Định những năm tháng chiến tranh

   Lời bạt in ở cuối bộ kí sự đồ sộ của nhà thơ người Bình Định Thu Hoài -  những kí ức tươi nguyên của một thời chiến trận.


   
 Cảm giác đầu tiên của tôi khi cầm trên tay hai tập Bình Định - những năm tháng chiến tranh của Thu Hoài là…ngại. Mà không ngại sao được khi giữa những ngày “thiên hạ náo nức kiếm sống” với công việc cứ cuốn đi như nước chảy qua cầu như hôm nay mà phải đọc đến cả một bộ nhật ký chiến tranh gồm hai tập với cả ngàn rưỡi trang sách chữ in nhỏ li ti như kiến bò, thoáng nhìn cứ như là bộ tiểu thuyết luận đề Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi mà mình đã được đọc thời còn là sinh viên khoa văn vậy. Thế nhưng, ơn chúa và may thay, đó chỉ là cảm giác ban đầu.
  Không biết tự bao giờ, trong tôi hằn sâu một ý niệm: Đã là viết kí về chiến tranh thì lúc nào cũng ngập tràn súng nổ ùng oàng, chết chóc và thù hận. Nhưng với những trang sách của Thu Hoài trong bộ nhật ký dài hơi này thì lại dâng đầy tình người và tình yêu. Điều đó được thể hiện ngay từ những trang đầu tiên của câu chuyện Ông lão và cô gái. Ấy là chuyện về mối tình của cô gái giao liên tên Ngát ở Bình Khê cứ chiều chiều chèo đò đưa cán bộ, du kích qua sông Kôn. Cô yêu một anh cán bộ hoạt động ở Vĩnh Thạnh tên là Nhành. Một chiều tối Ngát chèo đò đưa Nhành qua sông đi làm nhiệm vụ nhưng anh đã không quay về vào sáng hôm sau như thường lệ. Anh bị quân địch bắt khi đang nằm dưới hầm bí mật, bị chúng tra tấn dã man và đưa đi đâu mất tích. Tất cả đều nói là anh đã bị thủ tiêu. Chỉ có mỗi Ngát, người con gái đang yêu, là cho rằng người yêu mình không thể chết nên sáng nào cô cũng ra bờ sông ngóng đợi anh về. Và quả nhiên, tình yêu của những người lính trong chiến tranh đã thắng. Mùa thu năm 1973, phải là mấy năm sau, khi có dịp quay lại Bình Khê, tác giả Thu Hoài đã gặp lại cô du kích Ngát cùng người chồng của cô chính là anh cán bộ Nhành ấy bằng xương bằng thịt trong căn chòi cũ bên bờ sông Kôn.
  Cứ thế, tình yêu, lòng yêu nước, chí căm thù giặc và tinh thần chiến đấu xả thân vì Hòa bình cho quê hương xứ sở của người dân Bình Định hiện lên vằng vặc trong mỗi trang viết của Thu Hoài.
Như đã nói, Bình Định - những năm tháng chiến tranh là nhật kí, là ghi chép theo trình tự thời gian, không hư cấu, tưởng tượng, thấy gì ghi nấy. Nó tuyệt nhiên không phải là hồi ức để làm sống lại cái đã qua của lịch sử mà nó là thực tại đương thời của những năm tháng quân và dân Bình Định cùng cả nước đứng lên đánh Mĩ để giải phóng quê hương. Mỗi con chữ, mỗi trang viết của bộ nhật ký là những người thực, việc thực của những vùng quê có thực. Những con người ấy, không ít người đã thành liệt sĩ, nhiều người vẫn còn sống và làm việc trong hiện tại. Những sự việc ấy ngày nay nhiều người vẫn còn nhớ, vẫn còn kể cho lớp hậu sinh nghe. Những vùng quê ấy thì vẫn mãi và đang là những vùng quê của hôm nay.
  Và cũng vì thế, Bình Định - những năm tháng chiến tranh ngồn ngộn chất sống, ngồn ngộn chất anh hùng ca, ngồn ngộn sự hi sinh và mất mát như một bản trường ca bi tráng. Dù là nhật ký nhưng nó đã chứa đựng đầy đủ chất liệu cho một bộ tiểu thuyết dài hơi về một thời kỳ vẻ vang của đất và người Bình Định. Bạn đọc sẽ gặp ở đây hình ảnh của những đảng viên mà tên tuổi đã nổi danh trên các chiến trường Bình Định không chỉ là trong quá khứ. Đó là liệt sĩ Biên Cương, người từng là Bí thư Thị ủy Qui Nhơn mà tên Anh ngày nay được đặt cho một con đường của thành phố Qui Nhơn. Đó là Nguyễn Trung Tín, người sau chiến tranh là cán bộ cao cấp của Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Định, có chân trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thời chiến tranh những năm đầu 60, Nguyễn Trung Tín là Bí thư huyện ủy Vĩnh Thạnh, bà con dân tộc gọi là Bá Cơ Rin, cùng đóng khố, cởi trần lăn lộn với đồng bào dân tộc giữa đại ngàn Vĩnh Thạnh để lãnh đạo phong trào cách mạng ở nơi đây. Là Nguyễn Duy Quí, người chỉ huy quân sự của Tỉnh đội Bình Định, từng chỉ huy các trận đánh chống càn và tập kích địch trên xứ sở của những rừng dừa Hoài Nhơn. Đó là cô du kích Cảnh ở Điện Bàn, bị sa vào tay giặc nhưng một lòng trung kiên với Cách mạng, nhất quyết không khai nơi có hầm bí mật và những đồng chí của mình nên bị chúng dã man chặt đứt cả hai cánh tay để trở thành Thần vệ nữ như một bức tượng nổi tiếng của Mê lô. Đó là Trần Thị Thanh Lịch, người con gái kiên trung, làm y tá cứu chữa cho thương binh, bị giặc bắt quyết không khai nửa lời, bị bọn phòng nhì và ty cảnh sát Hoài Nhơn tra tấn dã man, ba lần chúng cưa chân chị thành ba khúc khiến cả Đảng bộ và nhân dân Hoài Châu, Hoài Nhơn xúc động và khâm phục. Và đó còn là người nữ biệt động thành Qui Nhơn Huỳnh Thị Ngọc, từng làm Bí thư Thị đoàn Qui Nhơn hồi năm 1971, lãnh đạo chi đoàn Trần Văn Ơn đánh những trận xuất quỉ nhập thần, làm trọng thương Tỉnh trưởng, giết chết Phó tỉnh trưởng Bình Định, bị địch bắt tra tấn dã man đến mức thả rắn độc vào trong quần rồi đưa vào giam ở nhà tù Sài Gòn, sau này được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và hiện tại đang sống bình dị giữa đời thường ở thành phố Qui Nhơn.
  Tất cả đều nhằm ca ngợi về những con người và năm tháng không thể nào quên. 



Tác giả của Bình Định - những năm tháng chiến tranh, anh Thu Hoài, là một người lịch lãm. Vốn là học sinh miền Nam được nhà nước cử đi học về đạo diễn sân khấu ở một trường đại học nghệ thuật nổi tiếng ở Liên Xô – Trường MGIC. Tốt nghiệp về nước, anh trở lại miền Nam làm phóng viên văn nghệ ở mặt trận khu Năm từ cuối những năm 60. Anh là người đi nhiều, biết nhiều và viết nhiều. Hẳn là khi viết những trang của Bình Định – những năm tháng chiến tranh, Thu Hoài không nghĩ đến chuyện in ấn, phát hành khi chiến tranh kết thúc. Anh chỉ biết là làm nhiệm vụ của một “thư kí thời đại”, viết về hiện thực đương thời như nó vốn có, không tô điểm, vẽ vời hoa hòe hoa sói; cũng chẳng để lấy lòng hoặc tâng bốc ai nhằm mưu lợi một điều gì đó cho bản thân. Những trang viết của Bình Định – những năm tháng chiến tranh cứ hiển hiện như sự sống, như cỏ cây phải mọc và hoa lá phải khoe sắc dưới ánh mặt trời. Vì thế mà Bình Định – những năm tháng chiến tranh như là những vỉa quặng lộ thiên về một bản anh hùng ca giữ nước tuy chưa được trau chuốt nhưng ngập tràn sự lấp lánh của những giá trị nhân bản cao cả. Đó là truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta qua hai cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lăng của thực dân Pháp và đề quốc Mĩ.



 Đất nước và con người Bình Định anh dũng và hi sinh, chiến đấu và chiến thắng hiện lên rờ rỡ trên mỗi trang của Bình Định – những năm tháng chiến tranh của tác giả Thu Hoài. Và đến lượt anh, tác giả của bộ nhật ký chiến trường ấy, cũng hiện lên rờ rỡ một cõi lòng da diết yêu quê.
  Ấy vậy mà, theo lời Thu Hoài, Bình Định – những năm tháng chiến tranh tập I và tập II với hơn ngàn rưỡi trang sách này mới chỉ là một phần trong nhiều tập ghi chép và nhật kí của anh. Thật là đáng để cho lớp hậu sinh ngã mũ kính chào trước một nhiệt huyết làm việc cần cù, không biết đến mệt mỏi của người phóng viên văn nghệ chiến trường năm xưa ấy.





  • ruchung ruchung
    Phambachieu:  " Nói thật dùng chữ BẠT tiếng hán mình không thấy thích thú chút nào. Dùng chữ BẠT thì thà dùng EPILOGUE/ EPILOG còn hơn nhiều. Giá mà..
    Phambachieu:  " Nói thật dùng chữ BẠT tiếng hán mình không thấy thích thú chút nào. Dùng chữ BẠT thì thà dùng EPILOGUE/ EPILOG còn hơn nhiều. Giá mà dùng được chữ Việt mình thì hay quá kiểu như...LỜI CUỐI, ĐOẠN THÊM, BÀN THÊM...LỜI THÊM...kể cả lời bình dân nhât cũng vẫn thích hơn như CƠM THÊM... sao không nhỉ?"
    Chán quá không comment trả lời được. phambachieu và Thọ Lộc ghé nhà Ruchung tôi nhé. Thân yêu.
    • Thọ Lộc Thọ Lộc
      OK. TL tui rất đồng ý với những phản biện đầy tính khoa học trên của Ruchung. Dù muốn thuần Việt nhưng rất nhiều từ Hán - Việt hoặc từ gốc Hán đang ..
      OK. TL tui rất đồng ý với những phản biện đầy tính khoa học trên của Ruchung. Dù muốn thuần Việt nhưng rất nhiều từ Hán - Việt hoặc từ gốc Hán đang ngày càng được Việt hoá trong kho từ vựng tiếng Việt ta. Dĩ nhiên là ko vì sự thuần Việt mà thay hết những từ Hán - Việt một cách máy móc. Như thế sẽ có những từ ngô nghê xuất hiện. (Khoe một chút: giữa tháng 5 này TL sẽ trình bày một tham luận tại Hội nghị khoa học về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt do ĐH Sài Gòn và ĐH HUFLIT tổ chức, trong đó có bàn tới dzụ Hán Việt và thuần Việt này)
      Tuy nhiên, theo ngu ý của  TL, ở trường hợp LỜI BẠT, nếu thay bằng LỜI CUỐI SÁCH  thì  vẫn được. vả chăng cũng đã có nhiều người dùng. Nhưng dù gì đi nữa, LỜI BẠT vẫn có nghĩa rộng và bao quát hơn LCS. Vì thế mà nó vẫn đang song song  tồn tại. Vậy mới gọi tiếng Việt ta là sinh ngữ. 
      Mong các chư huynh có thêm nhiều cao kiến để vấn đề được sáng tỏ hơn.  
  • PHẠM BÁ CHIỂU PHẠM BÁ CHIỂU
    Cảm ơn  Thọ Lộc về lời bạt xuât săc và cảm ơn Ruchung đã cho bạn đọc hiểu thêm về chữ bạt.
    Tuy nhien ngày nay người ta hay dùng chữ BẠT mà khô..
    Cảm ơn  Thọ Lộc về lời bạt xuât săc và cảm ơn Ruchung đã cho bạn đọc hiểu thêm về chữ bạt.
    Tuy nhien ngày nay người ta hay dùng chữ BẠT mà không viêt thêm LỜI BẠT. Đơn giản vì BẠT giờ đây k còn chỉ là lời nữa mà có khi là hình ảnh như BẠT trong phim và nhât là trong truyền hình - Đất của Thọ Lộc.
    Tuy nhiên, xin hai nhà ngôn ngữ học tìm 1 từ Việt tương đương nào có thể thay thế không? Nói thật dùng chữ BẠT tiếng hán mình không thấy thích thú chút nào. Dùng chữ BẠT thì thà dùng EPILOGUE/ EPILOG còn hơn nhiều. Giá mà dùng được chữ Việt mình thì hay quá kiểu như...LỜI CUỐI, ĐOẠN THÊM, BÀN THÊM...LỜI THÊM...kể cả lời bình dân nhât cũng vẫn thích hơn như CƠM THÊM... sao không nhỉ?
    • Thọ Lộc Thọ Lộc
      Theo ‎ í của PBC thì cũng đã có rồi đấy. Có những cuốn sách người ta ko dùng chữ LỜI BẠT   mà thay vào đó là LỜI CUỐI SÁCH. Thì cũng vậy, nghe nó..
      Theo ‎ í của PBC thì cũng đã có rồi đấy. Có những cuốn sách người ta ko dùng chữ LỜI BẠT   mà thay vào đó là LỜI CUỐI SÁCH. Thì cũng vậy, nghe nó thuần Việt hơn. Và xu hướng này đang ngày càng phổ biến. Ở trường hợp này TL dùng theo lối cổ.
       
       
  • ruchung ruchung
    • ruchung
    •  Hán ngữ có nhiều chữ BẠT, trong đó có một chữ BẠT có nghĩa là "gót chân". Vì gót chân nằm ở dưới và phía sau thân người, nên người ta sử dụng c..
     Hán ngữ có nhiều chữ BẠT, trong đó có một chữ BẠT có nghĩa là "gót chân". Vì gót chân nằm ở dưới và phía sau thân người, nên người ta sử dụng chữ này để chỉ bài viết in ở cuối sách, gọi là LỜI BẠT,  bài  viết ở cuối sách để trình bày thêm  một số ý kiến có liên quan đến nội dung của tác phẩm. Bài viết của TL có đủ phẩm chất của một LỜI BẠT và đã hỗ trợ nhiều cho cuốn sách của Thu Hoài, tác giả mà nếu không có ảnh Ruchung tôi sẽ nghĩ là con gái.
    • Thọ Lộc Thọ Lộc
      Lí giải về BẠT trong LỜI BẠT của Ruchung rất đúng và rất trúng.
      Nói thực là cả tác giả Thu Hoài lẫn TL đều rất hài lòng về Lời bạt cho bộ kí s..
      Lí giải về BẠT trong LỜI BẠT của Ruchung rất đúng và rất trúng.
      Nói thực là cả tác giả Thu Hoài lẫn TL đều rất hài lòng về Lời bạt cho bộ kí sự này. Nghe Ruchung khen cũng thấy sướng nên mới  bổ sung thêm bức ảnh minh hoạ  nữa đấy.
  • ruchung ruchung
    Đọc Lời Bạt thấy Bình Định đã trở thành quê hương thứ hai của Thọ Lộc rồi. Bộ sách, ngoài giá trị văn chương còn có giá trị tư liệu, rất quý.
    • Thọ Lộc Thọ Lộc
      Lời bạt này TL viết hơi bị ngẫu hứng và hơi făng. Người đặt hàng bài viết là nhà thơ tác giả Thu Hoài.
      Mới đó mà đã hơn 30 năm sống trên đất BĐ rồi đấy Ruchung à.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có nhận xét mới