24 tháng 8, 2013

Họp lớp đại học 2


PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỌP MẶT KỈ NIỆM 34 NĂM NGÀY

RA TRƯỜNG CỦA LỚP 16D KHOA VĂN ĐHSP VINH

TP. VINH, 24–8- 2013



Kính thưa quí thầy cô
Thưa các bạn thân mến!

Vào khoảng thời gian này của 34 năm về trước, năm 1979, những sinh viên của tập thể lớp D khóa 16 khoa Văn Trường ĐHSP Vinh tốt nghiệp ra trường. Trước đó 4 năm, vào năm 1975, chúng ta tựu trường. Năm 1975 cũng là năm có sự kiện đại thắng 30-4, ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, vì thế khóa 16 chúng ta đã được Nhà trường đặt tên là khóa Việt Nam chiến thắng (không biết có bao nhiêu bạn còn nhớ điều này nhỉ).

34 năm qua, từ những chàng trai cô gái trẻ như măng và hồn nhiên như cây cỏ, nay gặp lại nhau dù răng chưa long nhưng nhiều mái đầu đã bạc. 34 năm trước, dù có giỏi trí tưởng tượng đến đâu, các bạn cũng khó có thể hình dung ra cái tay từng làm bí thư chi đoàn và lớp trưởng mà lúc ấy dù đã đi lính 4 năm về vẫn chỉ mới 25 tuổi là tôi đây lại có lúc lên trước lớp phát biểu với mái đầu bạc trắng và cặp kính lão 3.0 nhìn chán ngăn ngắt như bây giờ.

34 năm, khoảng thời gian dài đủ cho một thiếu nữ trẻ nhất lớp sinh năm 1959 nên khi tốt nghiệp đại học mới tròn 19 tuổi, thiếu nữ ấy trẻ đến mức có chàng trai cùng lớp cũng rất trẻ là Uông Ngọc Dậu đã phải làm thơ tặng với câu Em sinh 59 hỡi em… nay thì thiếu nữ ấy dù dung nhan vẫn trẻ trung nhưng cũng phải đau lòng mà nói đã ở trong đội hình U54 và đã thành bà ngoại lâu lắm rồi. Tôi muốn nói đến bạn Kim Dung đấy.

Nói vậy để thấy rằng, từ bấy đến nay, sau 34 năm miệt mài kiếm sống, chăm lo cho công danh phú quí, rong ruổi theo đuổi sự nghiệp trên khắp mọi nẻo đường đất nước, đã đến lúc chúng ta cần phải gặp lại nhau, ngồi lại với nhau như ngày nào cùng chung lớp 16D để ít nhất cũng thấy được rằng chúng ta đã thay đổi như thế nào sau 34 năm tốt nghiệp ra trường; để cùng nhau ôn lại những kỉ niệm xưa, để nói nốt với nhau những điều có thể ngày xưa rất muốn mà chưa kịp nói.

Đó là lí do của buổi họp mặt hôm nay.


Ban tổ chức. Trái sang: Uông Ngọc Dậu, Nguyễn Trung Ngọc, HTS

Thưa các bạn!

Tại cuộc họp mặt này, lớp ta vui mừng chào đón sự có mặt của thầy Nguyễn Thanh Hải, GV Trung văn, là thầy chủ nhiệm lớp năm thứ nhất, người thầy đầu tiên ở trường đại học của chúng ta; thầy giáo dạy Pháp văn đồng thời là cựu bí thư liên chi đoàn khoa Vũ Hữu Thụy; đặc biệt là cô Đỗ Thị Kim Liên, giáo sư tiến sĩ ngôn ngữ học, dạy lớp ta năm thứ 3, cũng là người bạn thân thiết của lớp ta.  

Nhớ lại 34 năm về trước, chúng ta đã có một quãng đời sinh viên thật sôi nổi và đẹp đẽ. Một khung trời đại học với những giảng đường giản dị, khiêm nhường, gian khổ sau chiến tranh mà vẫn ăm ắp những tiếng cười trẻ trung và đầy ắp trí tuệ chứa đựng trong những bài giảng của thầy cô và những trang giáo trình thư viện. Vì thế mà dù đi khắp bốn phương trời, sống ở đâu, làm gì… chúng ta vẫn nhớ về mái trường Đại học Vinh như nhớ về một cái nôi đã nuôi dưỡng tâm hồn và trí tuệ để chúng ta lớn khôn, trưởng thành được như ngày nay. Ân tình ấy chúng ta không bao giờ quên. Và vì thế chúng ta luôn nhớ về và mong ngày trở lại.

34 năm trước, chúng ta cùng ngồi trong một lớp học như nhau, sống với nhau thân ái trong một mái nhà chung là lớp 16D;  đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, vui buồn bên nhau. Tôi vẫn chưa quên những cái tên của bạn bè trong lớp như Dung, Em, Ái, Đào, Thái, Lý, Chiến, Đông, Lộc, Quế, Tiến, Quang, Quyền, Sùng, Nhia, Ninh, Bắc, Quốc, Hòa, Đông, Thỏa. Ngọc, Nga, Nam, Minh, Thu, Huệ, Luyến, Vũ, Xuân, Thắng, Luyện, Hải, Quang Phú, Tịnh, Đặng Bình, Đoàn Bình, Lý (con), Cao Phú, Khôi, Lan, Ca, Hân, Dậu Những cái tên mà mỗi lần nhớ đến là nhớ về những kỉ niệm như một miền kí ức bí ẩn chôn sâu tận đáy lòng. Tuy nhiên, trong lớp ta có bạn Thái xinh đẹp, bạn Trần Đình Vợi, bạn Đặng Khắc Bình không may đã sớm qua đời. Chúng ta hãy nghiêng mình tưởng niệm và cầu mong cho Thái, Vợi và Bình ở dưới suối vàng được an giấc ngàn thu.

Hinh-lop-16D
       Lớp 16D-K2 ngày ấy (trong chuyến thực tế tại Huế 1977; Ảnh từ nguyenduyxuan.net)...


                         ...và bây giờ


Thưa quí thầy cô và các bạn.

Những thành viên của lớp 16D ngày ấy nay đang sống ở khắp nơi trên mọi miền đất nước, làm những công việc rất khác nhau, cách xa nhau hàng ngàn cây số. Có người đã thành vụ trưởng, giám đốc sở, hiệu trưởng, hiệu phó, trưởng, phó phòng ban, khoa..., có bạn đã thành phó giáo sư, tiến sĩ…, đa số vẫn miệt mài với nghề dạy học ở các trường đại học, cao đẳng, phổ thông trung học… nhiều bạn đã kịp nghỉ hưu vui vầy bên con cháu. Đó là một sự trưởng thành tất yếu, một sự phấn đấu không mệt mỏi của chúng ta kể từ ngày tốt nghiệp ra trường như là một món quà tặng của cuộc sống. Thay mặt ban tổ chức, xin nhiệt liệt chúc mừng cho những gì mà chúng ta đã và đang có hôm nay.


Sau 34 năm tôi lại được đứng phát biểu trước lớp 16D-K2


Thưa thầy cô và các bạn!

Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu cho sách Luận ngữ, ông tổ của tư tưởng phong kiến là Khổng tử đã viết một bài học về tình bạn để dạy cho 3.000 môn đồ của mình: Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ. (Nghĩa là: Có bạn từ phương xa tới, chẳng vui lắm sao). Khổng tử đã đưa tình bằng hữu lên trước cả lòng trung quân ái quốc, đã rất đề cao tình bạn bè trong cuộc sống. Hôm nay trở về đây, tay bắt mặt mừng, ngồi bên nhau trong khán phòng ấm tình bè bạn giữa thành  phố Vinh đầy ắp kỉ niệm này, là chúng ta đang làm theo tư tưởng tiến bộ cách tân ở trên của Khổng tử. Bạn bè đến với ta, ta đến với bạn bè,  chẳng vui lắm sao.

Một lần nữa xin được nhiệt liệt chào mừng sự có mặt của quí thầy cô và các bạn.
             

Thưa các bạn!

Bài phát biểu của tôi sẽ không bao giờ trọn vẹn và sẽ rất là khiếm khuyết nếu tôi không nói đến công lao của hai bạn, cũng là một trong những cặp đôi hoàn hảo của lớp ta yêu nhau mà nên vợ nên chồng. Đó là Nguyễn Trung Ngọc và Phan Thị Nga, đều cùng là giảng viên của VU, chính hai bạn là người đã khởi xướng và từ mấy tháng nay đã rất nhiệt tình, tự mình đứng ra làm hết mọi việc, gánh hết mọi trách nhiệm của một ban tổ chức tự phong không do ai giao phó để chúng ta có được buổi họp mặt hôm nay.  Xin được nói lời cảm ơn đến bạn Kim Dung, bạn Uông Ngọc Dậu, bạn Phan Thị Nga, bạn Nguyễn Trung Ngọc đã tài trợ toàn bộ về mặt tài chính và quà tặng cho cuộc gặp thành công. Thay mặt bạn bè, chân thành cảm ơn các bạn .

Nhân đây cũng xin được nói lời cảm ơn đến BGĐ và đội ngũ nhân viên Khách sạn Quyết Thành đã nhiệt tình tạo điều kiện cho cuộc gặp của lớp ta thành công.   

Thưa thầy cô và các bạn!

38 năm trước duyên trời đã khiến chúng ta gặp nhau, học chung một lớp đại học trong suốt bốn năm ròng. Nay sau 34 năm tốt nghiệp ra trường, sau bao nhiêu lăn lộn với cuộc đời, chúng ta lại được ngồi bên nhau như ngày xưa thân ái. Đó cũng là duyên trời. Và tôi mong cái duyên đó sẽ còn tiếp diễn trong tương lai.

Chúc quí thầy cô và các bạn có nhiều sức khỏe, niềm vui và hạnh phúc.

Xin chân thành cảm ơn.  

   

20 tháng 8, 2013

Hữu bằng tự viễn phương lai...

Đọc Luận ngữ của Khổng tử, tôi đã phải suy ngẫm và lấy làm ngạc nhiên về rất nhiều điều mà nhà tư tưởng của Trung Hoa cổ đại sống cách đây hơn 2.500 năm đã viết trong cuốn sách được xem là kinh điển dùng để dạy cho hơn 3.000 học trò của mình. Một trong những điều khiến tôi ngạc nhiên là khi thấy mở đầu cuốn sách ông đã viết một bài học về tình bạn:  Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ. Câu này có nghĩa rằng: Có bạn từ phương xa đến chẳng vui lắm sao. Tôi ngạc nhiên là vì sao một ông tổ của tư tưởng phong kiến như Khổng tử lại không mở đầu cho cuốn giáo khoa thư của mình bằng một bài học về lòng trung quân ái quốc (trung thành với nhà vua và yêu nước), mà lại đi nói về tình bạn.
Càng sống lâu, càng chiêm nghiệm về cuộc đời, mới thấy sự đề cao tình bạn bè của Khổng tử là vô cùng có lí. Trên cõi đời này, có lẽ không có ai là không có ít nhất một người bạn. Từ bậc chính nhân quân tử cho đến một kẻ khốn cùng của xã hội đều có bạn. Không có bạn, dù chỉ là một người, bạn sẽ có một khoảng trống không gì bù đắp nổi trong cuộc sống. Dù bạn đã có một sự nhiệp như ý với một gia đình chứa đầy hạnh phúc, tưởng như không cần gì thêm nữa thì bạn vẫn cần có thêm bạn bè.
Chẳng hạn, sống trong cuộc đời này ai cũng có những điều bí mật của riêng mình. Bí mật đến mức chỉ có trời biết đất biết và bạn biết (dĩ nhiên). Điều bí mật ấy bạn không thể nói cho ai biết, dù đó là cha mẹ hay vợ chồng con cái mình. Ấy vậy mà bạn lại sẵn sàng chia sẻ điều bí mật ấy với người bạn thân thiết nhất của mình.
Có một ông bạn vong niên lớn hơn tôi mấy tuổi chơi với nhau đã hàng chục năm nay. Ổng đang có một gia đình vợ con yên ấm thành đạt. Bỗng một hôm ông thì thào vào tai tôi một điều bí mật. Đó là ông có một đứa con riêng với một cô bồ cũ. Cô ấy lấy chồng nhưng lại không thể có con mà lí do là từ phía người chồng. Một lần đi công tác, ông và cô bồ cũ vô tình gặp lại nhau. Cô bồ cũ kể về hoàn cảnh trớ trêu của mình và nói rõ là rất khát khao có một đứa con để vui cửa vui nhà. Và lần ấy, ông đã giúp cô bồ cũ toại nguyện. Nay thì đứa con ấy đã trưởng thành, cô bồ cũ đã thành bà ngoại và sống rất hanh phúc. Điều may mắn là người chồng của cô bồ cũ cũng không băn khoăn gì vì cứ nghĩ đó là con mình. Điều bí mật động trời ấy của ông bạn tôi chỉ có trời biết, đất biết, bạn tôi biết, bồ cũ của bạn tôi biết và…tôi biết.  Tất cả chỉ có 3 người. Rồi sẽ đến lúc ông bạn tôi và tôi mang theo nó xuống mồ mà không thể chia sẻ thêm với bất kì ai khác nữa.
 Vậy mới thấy sự cần thiết và cao cả của tình bạn. Đó cũng là điều để cắt nghĩa vì sao Khổng tử đã mở đầu Luận ngữ bằng một bài học về tình bạn.
Càng sống, càng lớn tuổi càng cần có bạn bè. Bởi khi trẻ ta còn phải hướng tinh thần và tâm trí vào nhiều điều như học hành, sự nghiệp, công danh phú qúi, vợ con gia đình… Nhưng khi những điều đó đã có (dù không biết bao nhiêu cho đủ), có khi bạn lại thấy cô đơn. Và khi đó hẳn bạn sẽ nhớ về bạn bè, cần đến bạn bè.
Không có bạn, nỗi cô đơn của bạn sẽ nhân lên nhiều lần. Mà trong đời ai chẳng có sự cô đơn. Dù bạn thành đạt và hạnh phúc đến đâu thì nỗi cô đơn vẫn đi theo cuộc sống của bạn như cái bóng đi theo hình người, lúc khuất lúc hiện. Chẳng thế mà một ông bạn khác của tôi tên là Uông Ngọc Dậu đã viết một câu thơ rất hay: Đêm nằm bên vợ thấy cô đơn. Nghe qua thấy vô lí nhưng ngẫm lại thấy có lí.
Thường khi về già, con người ta có nhu cầu tìm về với bạn bè cũ. Chẳng thế mà khi còn trẻ nghe mọi người kêu đi họp lớp bạn thường dửng dưng, lại còn lên giọng: Không có việc gì làm nữa à mà bày ra họp lớp, mất thời gian, tốn tiền vô ích. 
Nhưng khi đã qua tuổi ngũ tuần, bạn lại mong đến ngày được mọi người kêu đi họp lớp.  Khi đó bạn sẵn sàng dẹp cả công việc gia đình và nhiệm sở sang một bên, sẵn sàng bỏ ra cả nửa tháng lương để đi họp lớp cách nơi bạn sống hàng ngàn cây số.
Khi đó, bài học của Khổng tử Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ càng đúng hơn bao giờ hết. Bạn bè đến với ta, ta đến với bạn bè, chẳng vui lắm sao.          



            

7 tháng 8, 2013

Đến hè lại đi…Long Hải

Chỗ tôi hè năm nào cũng Long Hải. Năm nay cũng vậy, nhưng không thấy chán vì đi để nghỉ dưỡng chứ có phải tham quan du lịch gì đâu mà chán, huống gì tính tôi lại thích nghỉ dưỡng.
Đến chiều nay thì quân gia nhà tôi đã kết thúc đợt nghỉ dưỡng 3 ngày Long Hải về. Ở Sài Gòn đi Long Hải thì cũng như dân Quy Nhơn đi Eo Nín Thở, như dân Vinh đi Cửa Lò, như dân Đồng Hới đi Bàu Tró… nhưng với dân SG thì khó khăn và qui mô hơn nhiều, thậm chí là cả một sự kiện bởi tốn nhiều thời gian tiền bạc hơn.

Với đồng nghiệp và bè bạn. Phải sang: Hồ Quốc Hùng, Hiệu trưởng Trần Văn Thiện, Chủ tịch HĐQT Trần Văn Hậu, Thanh Hương và HTS.


  Trong đêm diễn ra gala dinner tại nhà hàng Anoasis. Trái sang: HTS, Thanh Hương và phu nhân Hiệu trưởng.   
                                    
Khác năm ngoái ra Long Hải thì nằm ở Longhai Resort, năm nay đoàn tôi đóng quân hẳn Anoasis Beach Resort với đồi núi chập chùng và có vẻ hoang sơ hơn.  Ban đêm nằm trong nhà nhìn ra cứ như là đang ở giữa chốn rừng núi thẳm sâu vậy. Yên tĩnh tuyệt đối.
Ở bên Anoasis này cấu trúc nhà cửa độc đáo hơn bên Longhai Resort với những căn nhà biệt lập, mỗi căn một trường phái. Căn thì toàn sắt, căn toàn tranh tre nứa, căn lại toàn lá dừa nước. Không căn nào giống căn nào. Chỉ có giống một thứ là cùng cao giá như nhau.   
Với tôi, đã nghỉ dưỡng là nghỉ hẳn. Không báo đài, không mạng méo gì. Chỉ có ăn ngủ tắm rồi lại ăn ngủ tắm. Hết 3 ngày thì về. Không công việc, không thời sự chính trị chi hết. Lỡ trong 3 ngày qua mà bọn trung cộng có đem quân sang dạy cho Vn một bài học nữa e có khi cũng không biết.
Sáng ra biển chạy túc tắc rồi ùm xuống hồ bơi. Chiều cũng vậy, lại bơi và chạy. Đợt này ra biển nhưng không dám tắm biển vì sóng to và nước đục do ảnh hưởng bão ngoài Bắc. Vậy là cứ hồ bơi mà bì bõm.


                      Anoasis Beach Resort 4 sao với bảng hiệu đơn sơ 



Những căn nhà nhỏ biệt lập chênh vênh bên sườn núi. Đây là căn nhà số 12 hàng xóm với tôi, nơi cư ngụ của thầy Trần Chút. Buổi tối thầy gọi tôi sang nhà thầy uống rượu


                               Mái nhà tranh quen thuộc


                 
Cả những villa mái lợp bằng cỏ tranh, bên trên mái tranh lại là một lớp cỏ tự nhiên mọc xanh tươi rậm rịt nhìn qua rất giống căn nhà hoang


Trước cửa phòng tôi ở có đặt vỏ 1 con ốc to bằng sành. Một con mèo hoang đã đẻ vô đó 1 ổ mèo con làm nên món ốc nhồi mèo.



 Tranh thủ lúc mèo mẹ đi kiếm ăn tôi bắt lũ mèo con ra xem. Ổ mèo hoang có 4 con.



                              Căn nhà tôi ở có hành lang nhìn dọc ra sát biển



                         
                                  Nằm trong phòng nhìn ra thấy thật hoang sơ


Một nhóm. Trái sang: Hương - Sơn. Người mặc áo xanh là thầy Trần Chút, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng.


                                    Hồ Quốc Hùng với vợ chồng Hương -Sơn


                                      Dưới bóng tùng


                                              Vẫn thế


                                           Toàn đoàn


                                Tách khỏi đoàn



                                 Dưới tán bồ đề


    Sau lưng một người đàn ông thích nghỉ dưỡng là một...hồ bơi và biển cả. Xin chào


                                Và thường trực ở hồ bơi


                                      
  

30 tháng 7, 2013

Ba mươi năm ấy biết bao nhiêu tình

Lời khai mạc Hội lớp Ngữ văn K2 ĐHSP Quy Nhơn
Kỷ niệm 30 năm ra trường
Hội An, 27-7-2013
                                                                                                                                                             Nguyễn Văn Lập (Trưởng Ban tổ chức)


         Kính thưa quý Thầy cô giáo,
Thưa tất cả các bạn thân mến!

Về hội ngộ hôm nay với những mái tóc đã hoa râm, những đôi mắt đã nhiều năm mang kính tuổi, hơn 50 sinh viên của 2 lớp Ngữ văn khóa 2 Trường ĐHSP Quy Nhơn được gặp lại nhau sau 34 năm gặp nhau trên giảng đường đại học. Chúng ta vinh dự biết bao khi được đón tiếp Thầy Nguyễn Thanh Minh, Thầy Hà Tùng Sơn, đại diện cho những Thầy Cô giáo kính yêu của Khoa Ngữ văn, những người đã trực tiếp giảng dạy chúng ta những kiến thức căn bản nhất ở bậc đại học. Chúng ta cũng rất hân hạnh được đón tiếp anh Thái Minh Hoàng, một cán bộ văn phòng khoa, rất tận tụy và có nhiều kỉ niệm gắn bó thân thiết với sinh viên hai lớp chúng ta trong những ngày gian khổ nhất của giai đoạn giữa của thời bao cấp 1979-1983.

Chúng tôi rất cảm động với sự có mặt của những người thầy, người bạn từ hàng trăm, hàng nghìn cây số đã tụ họp về đây hôm nay để chúng ta có dịp ôn lại những dấu ấn khó phai mờ của một thời gian nan khổ luyện. Chúng tôi rất hân hoan gặp lại các bạn từ nhiều vùng miền của đất nước cũng đã vượt qua mọi trở ngại để có mặt hôm nay, được cùng nhau tay bắt mặt mừng và hàn huyên tâm sự sau 30 năm không hề được gặp hoặc có gặp được nhau nhưng rất hiếm hoi.




Cuộc hội ngộ này lẽ ra sẽ được tổ chức tại TP Quy Nhơn, nơi chúng ta đã trải qua 4 năm học tập rèn luyện, với đầy đủ ý nghĩa của nó. Nhưng, đặc biệt năm nay, chúng ta đã nhất trí chọn Thành phố di sản thế giới Hội An - Quảng Nam, với sự giúp đỡ tổ chức của bạn Đinh Hài phối hợp với bạn Nguyễn Văn Nam, làm nơi gặp gỡ đầu tiên của thời kỳ mà chúng ta luân phiên tổ chức họp lớp ở các địa phương khác nhau. Có thể sắp đến sẽ là Phú Yên, hoặc Khánh Hòa, hoặc Quảng Ngãi…

Xin thay mặt Ban tổ chức Hội lớp, tôi xin nhiệt liệt chào mừng sự hiện diện của quý thầy cô và tất cả các bạn hôm nay.

Cũng nhân ngày 27-7, xin trân trọng bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với các anh hùng, liệt sĩ, các thương bệnh binh, gia đình những bạn của lớp chúng ta có thân nhân là thương binh, liệt sĩ 

Thưa thầy cô và các bạn,

Kỳ lạ thay, mới nhập trường đó mà đã nay đã gần 35 năm. Cuộc sống đã trôi đi không bình lặng đối với mỗi một đời người trong quãng thời gian đó. Biết bao đói no, thăng trầm, vinh nhục, sướng khổ, biến thiên trong sự nghiệp và cuộc sống của từng gia đình mỗi người. Vượt lên trên hết, cái đáng quý là chúng ta vẫn đang sống, đang làm việc, đang vẫn luôn để tâm tưởng nhớ về bạn bè chung lớp, vẫn luôn tìm đến nhau để sẻ chia trong những lúc vui buồn.

Trong những giờ phút hội ngộ này, chúng ta hãy thành tâm tưởng nhớ đến những thầy cô và bạn bè đã vĩnh viễn lìa xa chúng ta:
Xin tưởng niệm Thầy Trần Văn Thận, nguyên PHT, dạy môn chuyên đề                         về Truyện Kiều.
Xin tưởng niệm Thầy Nguyễn Văn Giai, nguyên Chủ nhiệm Khoa, dạy môn Văn học Nga Xô viết.
Xin tưởng niệm Thầy Huỳnh Văn Trứ, nguyên Bí thư Chi bộ Khoa, dạy môn Hán Nôm.
Xin tưởng niệm Thầy Nguyễn Khánh Nồng, nguyên Giáo viên chủ nhiệm lớp Văn 2A, dạy môn Ngữ pháp TV và Chuyên đề Chữa câu sai TV.
Xin tưởng niệm Thầy Bùi Văn Lợi, nguyên chủ nhiệm lớp Văn 2A, dạy môn Văn học Việt Nam hiện đại.
Xin tưởng niệm bạn Trần Một, Nha Trang, cán bộ lớp Văn 2B, mất đã hơn 10 năm tại Hoa Kỳ.
Xin tưởng niệm bạn Ngô Thị Lộc, Quảng Ngãi, cựu sinh viên lớp Văn 2A đã ra đi lúc vẫn còn độc thân, xuân sắc.
Xin tưởng niệm bạn Lê Công Tòng, cựu sinh viên lớp Văn 2B, qua đời tại Quảng Nam-Đà Nẵng.
Và mới đây nhất, một bạn vừa qua đời tại Quảng Ngãi, chúng tôi xin thành tâm tưởng niệm bạn Huỳnh Vân Hà, cựu sinh viên lớp Văn 2A.  Trong dịp kỉ niệm 35 thành lập khoa và trường vừa qua, các bạn 2 lớp đã được gặp mặt Huỳnh Vân Hà lần cuối cùng tại Quy Nhơn, đã được bày tỏ tình cảm và sẻ chia về tinh thần lẫn vật chất cho Hà. Tiếc là Hà không thể chờ được để dự họp lớp lần này như mong muốn của Hà.

Gần một trăm sinh viên của 2 lớp Ngữ văn Khóa 2 tham dự chương trình đào tạo những năm 79-83 đầy gian khổ nhưng rất đáng nhớ ấy, theo tôi đó cũng là một sự dấn thân. Chúng ta đã quy tụ về Quy Nhơn để học tập từ nhiều vùng miền trên cả nước, từ Bắc, Trung, Nam, có nhiều bạn đã từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, có bạn đã từng là cán bộ những năm đầu mới giải phóng. Chúng ta đã chấp nhận khó khăn vô vàn của thời bao cấp, vượt qua nó và có chút ít đóng góp cho xã hội, cho cuộc sống gia đình riêng của mình, tự hào với sự thanh bạch của bản thân, của nghề mình. Đã có những tấm gương vượt qua tai ương để khẳng định mình như trường hợp của bạn Nguyễn Ngọc Hưng, nay là một cây bút thơ tài năng, hội viên Hội nhà văn VN. Đã có những đưa đẩy của cuộc sống khiến cho không ít bạn đã phải chuyển ngành nghề: có người kinh doanh, có người làm công ty doanh nghiệp đến chức Tổng giám đốc, có người vào lính nay đã lên hàm đại tá, có người đã định cư ở nước ngoài, có người mất tích trên đường vượt biển, có người làm đến vụ trưởng, trợ lý cho UV Bộ chính trị, có người là tỉnh ủy viên, giám đốc, trưởng phó phòng, làm VIP ở một số UBND và HĐND cấp Tỉnh, thành phố. Còn đa phần các bạn khác vẫn theo nghiệp phấn trắng bảng đen, hầu hết ở các trường THPT, Trường Chính trị, Trường Trung cấp, Cao đẳng Nghề, CĐSP và Đại học. Một số bạn vẫn còn trong ngành giáo dục nhưng đã chuyến sang làm công tác quản lý, Chánh VP, trưởng phó các phòng ban của các sở GD, phòng GD và các trường ĐHCĐ. Về sự phấn đấu vươn lên trong khoa học, xin thông báo với thầy cô là trong lớp đến nay đã có 10 người đạt học vị thạc sĩ , 4 người đạt học vị tiến sĩ và có một số bạn khác vẫn có dự định đi học lên nữa dù đã vào độ tuổi U60. Một số bạn thuộc diện CB đi học nay đã đến tuổi “rửa tay gác kiếm” trong một vài năm tới.

            
                                   Ảnh rút từ: http://tuongngo.vnweblogs.com

Thưa thầy cô và các bạn,

Quên sao được những năm tháng bộn bề gian khó của thời sinh viên. Chúng ta đã biết thế nào là đói và rét, cái đói của thời còn ăn độn “bánh xe lãng tử” và mì lát, khoai lang. Cái đói của những ngày sướng rơn vì được mấy chị bếp tặng cho miếng cơm cháy. Quên sao được những quán ăn khuya như chè bà Thọ, bánh tai vạt bà Tư Ú, quán cà phê Bà Già, quán bánh xèo vỉa hè bà Báu…Chúng đã góp phần làm dịu đi những cơn đói sau giờ tự học ở khu nội trú OB của anh chị em 2 lớp chúng ta.

Quên sao được cảnh tẳm giặt chung ở giếng nước đầu hồi OB , cảnh nhà vệ sinh xuống cấp đến mức nhiều bạn nam, đa số là CB đi học, phải đi “làm quận công” (ủng lia tia) ở ngoài bãi biển eo Nín thở từ 4-5g sáng. Chúng ta đã nhiều lần bị rận rệp, bị “đàn ta lư” (tức ghẻ ruồi- tiếng Nga gọi là ghe roi-anh hùng)) và bọn “hắc lào” tấn công không thương tiếc. Đã có lúc khu nội trú phải tổ chức ra quân phản kích lũ rệp hút máu SV. Chúng có biết đâu chính những SV này đã từng hiến máu nhiều lần cho thương binh nặng từ chiến trường K (đưa về Quân y viện C13) và đã từng được đặc cách kết nạp Đoàn ngay sau đó.

Quên sao được những ngày tưới rau xanh bằng phân bắc, bán cho nhà bếp rồi được ăn lại những thứ rau xanh ấy. Phân bắc càng nhiều, rau càng xanh, lớp càng được bình bầu xếp loại thi đua cao. Quên sao được những ngày lao động Nam Tăng, thầy trò cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhau cả tháng ở Khu sản xuất. Phá rừng, đốt rẫy, trồng mì, trồng lang, làm lán trại, chặt cây làm củi bán cho trường. Có tiền, thỉnh thoảng cả lớp lại được cải thiện bằng một bữa ăn tươi.

Quên sao được những phong trào mà hai lớp chúng ta đã tham gia hoặc tự đề ra để thực hiện: trang trí phòng học cho toàn trường, phòng ở sạch đẹp, đi lao động Vĩnh Kim, Đồng Hào, đi viết ký tại Trà Bồng, Vĩnh Thạnh… Trong đó có phong trào văn nghệ với vở kịch để đời “ Con cáo và chùm nho” do thầy Nguyễn Văn Giai, CNK,đạo diễn, đã từng đem đi biểu diễn ở vài nơi. Chắc các bạn không quên những diễn viên chính: Đinh Hài trong vai Ê dốp, Hứa Mỹ Hạnh trong vai  Klêa, Bảo Vân trong vai Xan tuýt, Ngô Đình Chiến trong vai A ga na tôt , Đào Kim Phụng trong vai Mê li ta, và Bùi Đức Lục trong vai A bi xi nhi. Quên sao được những tiếng đàn khuya trên hành lang nội trú của Quốc, của Bảo Vân, của Nam . Quên sao được những giờ thể dục với tài năng xà đơn, xà kép của bạn Đinh Hài, những giờ tiếng Việt làm văn của thầy Nồng với trích dẫn “ cái bí hiểm của cha nàng” (lẫy nỏ thần An Dương Vương) trong bài Hứa Mỹ Hạnh, “hóa đá hay hóa ngọc, hóa gì cũng hóa cả mà thôi”(dị bản Mỵ Châu-Trọng Thủy) trong bài của Sơn cận. Và quên sao được tất cả những kỉ niệm đáng khóc đáng cười khác nữa của riêng từng người, từng đôi, từng nhóm bạn…

Quên sao được những thầy cô giáo thỉnh giảng những năm đó. Cô Hoàng dạy VHPT, thầy Lê Trí Viễn, dạy VHVN trung đại, thầy Hoàng Tiến Tựu – VHDG, thầy Lê Văn Chửng- LLVN, thầy Nguyễn Sĩ Cẩn- VHVN trung đại, cô Bích Hải- VHTQ, thầy Trần Ngọc Thêm – NPVB, thầy Lê Hoài Nam- chuyên đề Thanh Tâm Tài Nhân, thầy Cù Đình Tú – Phong cách học, thầy Phan Trọng Luận – Giáo học pháp Văn và nhiều thầy cô giáo khác. Chúng ta may mắn và tự hào vì đã từng được học nghề với những cây đa cây đề ấy. Chúng ta mang ơn tất cả những thầy cô giáo trong ngoài khoa đã trang bị cho chúng ta những kiến thức có giá trị để làm nền cho suốt 30 năm qua.

Một điều cho đến nay vẫn khắc khoải trong lòng nhiều người là: quan điểm đánh giá con người lúc ấy hơi quá bônsêvich, việc nhìn nhận đánh giá đạo đức của sinh viên hơi quá cứng nhắc, có phần ấu trĩ, đã làm đứt gánh giữa đường và chậm tiến độ học tập của một số bạn. Giờ nhìn lại rõ ràng là khoa, trường, BCS lớp lúc bấy giờ đã có một số sai lầm đáng tiếc, nhưng sai lầm ấy có tính lịch sử cụ thể của nó. Không ai có thể cưỡng chống lại được.

Chúng ta tự hào là trong những năm tháng vô cùng khó khăn đó lớp chúng ta là tập thể đầu tiên của trường được vinh dự nhận Bằng khen Tập thể học sinh XHCN do TƯ Đoàn trao tặng vào năm 1980, góp phần quan trọng cho truyền thống của Trường ĐHSPQN trong thời kỳ đầu thành lập.



Thưa quý thầy cô và các bạn

Đã ở vào lứa tuổi 50 có bạn đã gần 60 đã đến lúc “tri thiên mệnh”, chúng ta đã thu hoạch được gì trong hơn nửa đời qua? Chúng ta đã làm được một số điều, chúng ta đã gây dựng nên một gia đình, chúng ta đã đóng góp phần xứng đáng của mình cho xã hội, chúng ta đã ngụp lặn trong bể đời sống để tận mắt nhìn thấy phần nào cái màu xám của lý luận và màu xanh mãi mãi của cây đời. Và chúng ta có thể rút ra được một kết luận là tình bạn của chúng ta là rất đỗi thiêng liêng. Không phải ngẫu nhiên mà đấng tạo hóa đã xui khiến gần 100 con người chúng ta từ khắp nơi về sống với nhau 4 năm dưới mái trường ĐHSPQN. Chúng ta đã có duyên với nhau, và điều đó đã dắt dẫn chúng ta gặp nhau, quan tâm đến nhau trong những năm qua, đã khiến chúng ta gặp nhau hôm nay tại TP di sản thế giới Hội An này, và chính cái duyên đó sẽ tạo điều kiện cho chúng ta gặp nhau những lần khác nữa trong tương lai.

Thay mặt BTC, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn đã thu xếp công việc và thời gian để đến dự buổi gặp mặt đầy ý nghĩa này. Xin đặc biệt cảm ơn bạn Đinh Hài TUV, Giám đốc Sở VH-TT-DL Quảng Nam, bạn Nguyễn Văn Nam, Giám đốc 1 doanh nghiệp Đà Nẵng đã tổ chức tiếp đón mọi người hết sức chu đáo và trọn vẹn nghĩa tình. Xin cảm ơn 5-star Palm Garden Resort đã hỗ trợ tổ chức thành công buổi gặp mặt hôm nay. Chúc quý thầy cô và các bạn sức khỏe và hạnh phúc.

Trân trọng cảm ơn.


                                  Trưởng BTC Nguyễn Văn Lập (bên trái)  


                                 Cựu thư kí khoa Thái Minh Hoàng


                        
    Thầy Nguyễn Thanh Minh tại nơi đón tiếp, Riverside Impression Homestay Villa. 


                               Hồ bơi tuyệt đẹp của resort Palm Garden.


                                  Và thảm cỏ đẹp như mơ
  


                                 Dãy Villa của Palm Garden.. 


                         Với bãi biển rất đời người