Chử
Anh Đào
Thời thơ ấu của
người ta, trừ số ít trường hợp, phần lớn là sống với cha mẹ ông bà nơi quê nhà
với những thương yêu, giáo dục, dạy dỗ và những phong tục lề thói hàng nghìn
năm. Đây là khoảng thời gian hình thành nhân cách, tư cách, cá tính, thói quen
bền vững nhất. Lớn lên, đi học, làm ăn, công tác, người Hà Giang lấy vợ tận Cà
Mau, kết hôn sinh sống xứ người Úc, Pháp, Mĩ, Hà Lan... mấy nghìn vạn dăm;
thành đạt, làm quan chức không thiếu thứ gì nhưng những thói quen, sở thích buổi
bình minh nơi chôn nhau cắt rốn thì dù tự giác hay tự phát cũng khó lòng mà bỏ
được.
Tập kí sự lịch sử
"Hoàng- Lê nhất thống chí" của nhóm Ngô gia văn phái ghi lại: Bắc bình vương Nguyễn Huệ ra Bắc hà phò
Lê phạt Trịnh với tướng mạo oai phong lẫm liệt, không ai dám nhìn thẳng vào
mặt. Nhưng vị tướng trăm trận trăm thắng lẫy lừng này khi được vua Lê Hiển Tông
mời vào điện Hiển Thọ đã để lộ một cử chỉ quê mùa: Vua ân cần mời mãi, Bình (Nguyễn
Huệ) mới khép nép ngồi xuống góc sập, hai chân buông thõng xuống đất. Khi nhà
vua có ý định gả công chúa Ngọc Hân cho, Bình cười to và nói ngay: Ta vâng mệnh
đại huynh (Nguyễn Nhạc) ra đây dẹp giặc, giờ lại cưới vợ, về trong ấy bọn trẻ
nó cười cho. Tuy nhiên ta mới biết con gái Nam hà, lần này thử một chuyến xem
con gái Bắc hà có tốt không? Đây là khẩu khí của một anh nông dân, không thể
dùng vào ngoại giao. (Những người làm sử viết ra nhằm mục đích coi thường: Bắc
bình vương Nguyễn Huệ chẳng qua chỉ là một anh nông dân . Nhưng tính khách quan
của hình tượng mang lại sự ngợi ca theo quan điểm nhân dân: Nguyễn Huệ là người
anh hùng áo vải.)
Trong đời thường,
có thể dẫn ra nhiều trường hợp như thế.
N.Đ, ông giáo
viên làm thơ. Còn nhớ có lần đi mua hàng, ông ta lựa chọn rất kĩ, săm soi lật,
lựa, chọn tới mức người bán hàng sốt ruột. Không những thế, chán chê, ông thản
nhiên sang hàng bên cạnh mua thứ mà bên này cũng có. Tôi ngạc nhiên. Ông ghé
vào tai tôi: "Cái ấy ở bên này rẻ hơn một giá. Ông thông cảm. Tôi là dân
Nghệ mà lại."
Một ông đường
đường là chủ nhiệm khoa một trường bậc đại học. Nhà cao cửa rộng, phương tiện
sinh hoạt tối tân, hiện đại, trang bị cá nhân toàn hàng hiệu. Nhưng ra đường hễ
thấy sợi dây thun, cái đinh ốc, bù loong, mảnh xốp, túi nilon...là lượm ngay,
quyết không cho chúng nó thoát. Vì theo ông: Sẽ có lúc cần đến chúng. Đúng là
cái đuôi của nghìn năm khốn khó, đói nghèo trong rơm rạ.
Một bà cụ già gốc
Nam bộ nhưng ra PLei Ku từ những năm năm mươi thế kỉ trước. Con đàn cháu đống
nhưng đi làm ăn và sinh sống ở xa. Đứa Đà Nẵng, đứa Sài Gòn, Hà Nội, đứa Phần
Lan...Chúng xây nhà cho Cụ ở PLei Ku với nội thất hiện đại. Toalet có bình nóng
lạnh, bể tắm, bồn cầu Ý. Mặc! Quanh năm, bất kể mưa nắng đêm ngày, Cụ vẫn thủy
chung với cái nhà cầu cuối vườn- cái nhà cầu miệt vườn miền Tây không mái che,
thưng sơ sài xung quanh bằng miếng tôn cao khoảng hai gang tay trơ gan cùng tuế
nguyệt dọc các dòng kinh xáng hay hầm cá mỗi nhà.
Một ông sếp cỡ
bự, thường xuyên tiếp khách ở những nhà hàng sang trọng. Nhưng không có ngoại
lệ, cao lương mĩ vị, của ngon vật lạ gì cũng mặc. Dứt khoát phải một chén ớt
trái (ớt hiểm càng tốt), một chén mắm ruốc và một đĩa vả, sung mặc định. May mà
các nhà hàng quen đã biết ý ông nên hễ nhìn thấy ông là y chang các thức ấy
được đưa lên trước tiên. Tôi còn chứng kiến hai lần ông để nguyên comple trèo
lên cây vả quả sai trĩu trịt ở nhà hàng T.Đ.X và T.T.
Một ông vào PK
năm hai mươi tuổi. Giờ đã ngấp nghé lục tuần. Con cháu đã đặc giọng phố núi.
Còn ông, ngoài "hương âm vô cải", dứt khoát không pha trộn, đổi thay
mà còn một say mê khác. Ông lập một góc bếp riêng gồm đủ thứ: tương, cà ghém,
trám, măng nứa, mẻ, riềng, mắm tôm, măng ngâm ớt, mơ, sấu, tai chua, cá
thính...Bữa ăn nhà ông là dân ca ba miền, đủ các thang âm điệu thức: chua, cay,
mặn, ngọt, đắng, bùi...Một lần con ông thắc mắc: Có gì ngon lành trong miếng cà
ghém mặn tới mức muối phải gọi bằng cụ mà bố háo hức thế? Ông bảo: Hồn vía cố
hương đấy con ạ. Rồi ngâm ngợi: Đành rằng
canh cải nấu gừng/ Không ăn thì chớ xin đừng mỉa mai...
C.A.Đ
PK26.8.15
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới