Mới đi Bình Phước về, mở email thấy
có bài viết của Lê Quang Phương, người đồng đội cùng một tiểu đội thời C20. Phương là SV khoa Sinh
K15 cùng nhập ngũ với tôi. Còn nhớ sau 30 tháng Tư 75, Phương từ trung đoàn 266 đóng ở
Q10 lên chơi với tôi khi đó được biệt phái đi làm quân quản ở quận 11, gần trường đua Phú Thọ bây giờ. Mấy ngày đó tôi đang bị sốt
hành hạ, nằm li bì miệng đắng nghét không ăn được gì nhưng cũng gắng dậy đi ăn với Phương tô hủ tiếu. Tôi húp vài muỗng nước rồi thôi. Rời quán hủ tiếu hai thằng đưa nhau vào hiệu
ảnh chụp một pô làm kỉ niệm gọi là để mừng thoát chết. Đó là hồi tháng 5 năm 1975. Kể từ ngày bắt đầu chiến dịch HCM, chúng tôi chia tay để Phương rời C20 về bổ sung cho trung đoàn 266, nay mới gặp lại nhau. Đấy là lần đầu tiên chúng tôi chụp ảnh ở đất Sài Gòn. Thấy tôi quá mệt mỏi người chủ hiệu ảnh đã kiếm cho tôi một cái ghế ngồi, còn Lê Quang Phương thì đứng với cái nón cối vẫn không rời tay.
Tấm hình chụp hồi đó vẫn còn đây:
Sau đó mấy hôm, vào một ngày chủ nhật, thì Lê Đăng Sơn học cùng lớp12A với tôi, cũng từ nơi được bổ sung là Trung đoàn 273 đang đóng quân ở tổng kho Long Bình lên thăm rồi rủ tôi đi Sở thú chơi. Hắn đi chơi mà mang theo cả khẩu AK báng gấp của lính trinh sát làm dân đi chơi sở thú hôm đó rất ngại. Đó là lần đầu tiên trong đời chúng tôi đi chơi Sở thú Sài Gòn. Hồi đó lính giải phóng vào cổng được miễn mua vé.
Đang đi có ông thợ chụp hình dạo mời mọc. Lê Sơn gác chân lên vệ đường làm luôn một kiểu tặng tôi. Chỉ duy nhất có một tấm. Tôi giữ cho đến ngày nay:
Lê Đăng Sơn, Sài Gòn tháng 5-1975
P/S: Lê Quang Phương là nhân vật đã xuất hiện trong bài viết này: http://hatungson.blogspot.com/2011/12/chuyen-o-linh-bay-gio-moi-ke-1.html
Lê Quang Phương học khoa Sinh nhưng lại rất thích văn chương và ham viết truyện ngắn. Hiện dù đã nghỉ hưu nhưng Phương lại đang là một học viên trẻ của Trường viết văn Nguyễn Du. Ngày mới Giải phóng tôi đã từng lác mắt khi thấy trên báo Văn nghệ Giải phóng số ra tháng 8 - 1975 có đăng một truyện ngắn của Phương với nhan đề Chia cơm.
Email của Lê Quang Phương hôm nay là một truyện ngắn:
Lê Quang Phương học khoa Sinh nhưng lại rất thích văn chương và ham viết truyện ngắn. Hiện dù đã nghỉ hưu nhưng Phương lại đang là một học viên trẻ của Trường viết văn Nguyễn Du. Ngày mới Giải phóng tôi đã từng lác mắt khi thấy trên báo Văn nghệ Giải phóng số ra tháng 8 - 1975 có đăng một truyện ngắn của Phương với nhan đề Chia cơm.
Email của Lê Quang Phương hôm nay là một truyện ngắn:
Mỗi 2 (*)
Viet Van Tre
Truyện ngắn dự thi của Lê Quang Phương
1
Tại trường Trung học phổ thông Xuân Tươi I của tỉnh
Thiên Thanh.
Hôm ấy là ngày lành tháng tốt giờ đẹp, thầy trò dô hò treo một tấm biển lớn lên
mình lão Bàng.
Tấm biển lunh
linh đẹp với dòng chữ “Mỗi...”
Thầy Tị dạy văn đứng
ra sốt sắng chỉ huy: “ Lên lên ...xuống... xuống”. Treo xong thầy ngắm
nghía ra chiều tâm đắc lắm. Rồi thầy lấy máy ảnh ra, nghiêng nghiêng ngó ngó,
vặn vặn vẹo vẹo, đánh mông bên này, lệch vai bên kia, bấm bấm chụp chụp.
- “Mỗi...”
Thầy Tị gật gù.
Môi thầy mấp máy.
Thầy quấn lại
cái khăn choàng dài trên cổ. Cái khăn có màu đen chen lẫn các màu vàng đỏ tía. Thầy quay cái khăn một
vòng quanh cổ, từ phải qua trái, ra sau về trước.
Nhìn cái khăn mềm dài nhỏ, khúc đen khúc đỏ vòng vện quanh cổ, che lấp miệng
thầy. Nhìn cái mũi nhọn nơi đầu chót như đang chực mổ. Bắt gặp đôi mắt lươn
đang lập lờ dưới hàng mày rậm. Không riêng gì lão Bàng mà tất cả mọi người
thoáng chờn rợn.
Mấy em nữ sinh bất giác nhón chân trốn sau lưng lão Bàng.
Thầy Tị kéo khăn cho lộ miệng mình ra. Một hàm răng trắng. Một nụ cười bóng.
Mọi người thấy nhẹ đi đôi phần. Thầy vỗ đùi :
- Hay hay... hay thật...” Mỗi...”
. - Ra vẻ... tinh
tướng...
Thầy Gầu
toán đốp lại. Thầy Tị im tịt.
2
Thầy Tị
về trường này trước Hiệu trưởng Chức. Trước kia thầy dạy trên Lương Chánh. Trên
đó thầy đã lập được một kỳ tích mà chỉ có hai người biết. Đó là thầy và ông
hiệu trưởng. Vì mắc mớ chuyện thuyên chuyển với hiệu trưởng nên thầy Tị đã vặn
nới lỏng cái núm ti xe đạp của ông. Hậu quả là ông hiệu trưởng bị lỏng tay lái
nên đã để lại ba cái răng cạnh hòn đá, dưới dốc trước cổng trường.
Hậu quả
tiếp theo là thầy Tị được chuyển về xuôi như ý.
Sau một cuộc
điện thoại của Hiệu trưởng Chức và Hiệu trường trường Lương Chánh mà cái tên
“Tị văn” được truyền bá trong trường. (Tị là tên thường gọi vì thầy sinh năm
rắn).
Các em học sinh
gọi thẳng thầy là Vặn Ti.
Thầy Vặn Ti mạng
thủy, thầy Gầu Toán mạng hỏa, vì vậy hai thầy khắc nhau.
Thầy Vặn Ti thì
chỉn chu mực thước. Thầy Gầu Toán thì thỉnh thoảng lại tháo hàm răng giả của
mình ra đặt cạch xuống bàn, mồm miệng móm mém mấp ma mấp máy làm cho các cô
giáo trẻ vừa cười ngặt nghẽo vừa thấy ghê ghê.
Thầy Vặn Ti lấy
thế làm tởm. Thầy nói một mình, không dám nói to:
- Cô hồn âm
phủ!
Thầy Vặn Ti thỉnh
thoảng lại đọc đôi ba câu thơ khi nói chuyện, hoặc chen vài từ Hán -Việt để
nâng cao tầm trí thức. Thầy Gầu Toán lấy thế làm khó chịu. Thầy lúc lắc cái
mông rồi nói không thèm hạ giọng:
- Ma cô nói
chữ!
- Đểu tiên
sinh – Thư ký hội đồng (người ít nói nhất trường) buột miệng.
Khi lên
lớp thầy Gầu toán viết chữ lên bảng loằng ngoằng như thừng như chão.
Thầy “Vặn
Ti” thì viết chữ nào ra chữ ấy. Thầy tiết kiệm chữ viết, do tính thầy
như thế, cũng là do bàn tay phải cầm phấn của thầy còn có ba ngón, mất đi ngón
trỏ và ngón giữa. Thầy tằn tiện cả hơi sức khi đứng lớp (để dành cho giờ dạy
thêm tại gia). Thầy nói với phụ huynh rằng “ con các quý vị không mở mắt
được đâu nếu không học thêm ”.
Môn văn thầy chỉ
viết lên bảng mỗi cái đề bài dạy.
Rồi gọi đôi ba
em đọc trong sách giáo khoa.
Rồi gọi đôi ba
em nữa đọc phần chuẩn bị ở nhà (học thêm thầy dạy).
Thầy nêu một đôi
câu hỏi, học sinh đọc sách giáo khoa để trả lời vào vở. Thầy gọi đấy là nêu
tình huống để học sinh tự giải quyết ở mức độ cao.
Rồi thầy chấm
điểm vở ghi. Chấm phần ghi ở lớp học thêm của thầy và chấm phần nghiên cứu sách
giáo khoa.
Bốn lăm phút lên
lớp thầy chỉ nói vài chục tiếng và viết vài chục chữ. Thầy khoái chá và sung
sướng với cách dạy của mình: “Hoan hô đổi mới phương pháp giảng dạy, hoan hô
lấy học sinh làm trung tâm, hoan hô dạy học nêu vấn đề”.
Trong bốn lăm phút để thầy trò khám phá tri thức đó, thầy không quên
dành năm bảy phút để làm công tác chủ nhiệm. Nội dung chính của công tác chủ
nhiệm là thu các khoản tiền. Thầy nghiêm lắm và thầy không thu tiền lẻ ( loại
tiền có mệnh giá từ hai mươi ngàn trở xuống). Thầy bảo: “Chữ đẹp phải tiền
đẹp...” Ai mà chứng kiến thầy đếm tiền bằng bàn tay ba ngón có lẽ phục
suốt đời.
Những tiết học
rất chuẩn rất đúng chương trình cứ thế mà diễn ra. Không ồn ào như giờ thầy Gầu
Toán.
Hiệu trưởng
Chức không biết thầy Vặn Ti đứng lớp như vậy. Vì thế hiệu trưởng không
giải thích được tại sao thầy Vặn Ti dạy nhiều giờ thế mà không hao hư tâm
xác như các thầy cô khác. Càng dạy nhiều thầy càng béo tốt. Má thầy sề sệ, bụng
phinh phính, tay chân ngắn cùn cũn, mắt lươn, tai chuột. Ai không biết, bảo đó
là thầy giáo mà lại là thầy giáo dạy văn thì chắc rằng họ không tin nổi.
Thầy Vặn Ti
thích dạy gấp đôi gấp ba số giờ tiêu chuẩn. Tiền thừa giờ của thầy nhiều nhất
trường.
Một năm học,
thầy Vặn Ti cũng có hai tiết dạy hào phóng lời nói và chữ viết. Đó là hai tiết
thao giảng bắt buộc ở hai học kì.
Hai tiết này có
người dự, thầy nói nhiều và viết nhiều hơn. “Vì học sinh thân yêu ấy
mà” Thầy bảo thế “ Mình gắng lên một tí, tuy mệt một tí, nhưng học sinh
được một tí” và thầy đã khái quát lên gọi là “ ba tí” và rằng :
“Đấy là châm ngôn đạo đức làm thầy”
Nghe vậy nhưng
không ai bình luận gì, ngoại trừ Gầu Toán đốp chát: “Đểu tiên sinh”.
Khi đồng nghiệp trong tổ góp ý bài dạy hai tiết thao giảng, cũng có những
lời khen đểu khen giả, thầy khiêm nhường kiểu dương dương: “ Chúng
mình được đào tạo ở Sư phạm I Hà Nội dạy thế cũng tạm ổn”.
Giáo viên trong
trường ai cũng biết rõ thầy Vặn Ti học hệ chuyên tu tại chức vừa học vừa
làm giáo viên, nhưng chẳng có ai đôi co với Vặn Ti làm gì cho rách việc.
Học sinh sợ thầy
Vặn Ti. Sợ không giám bàn tán nhỏ to với lão Bàng. Không giám nói ngang
nói ngửa như với Gầu Toán.
Ai mà lỡ lời nói
đến hai tiếng Vặn Ti thì đang vui đấy bỗng trầm lắng lại ngay, cứ như là có con
rắn độc bò vào giữa đám đông.
Từ ngày thầy
Vặn Ti về trường, lão Bàng thấy lòng dạ bất an. Lão giật mình khi biết được
thầy Vặn Ti mất hai ngón tay vào cái đêm mùng 5-3-1979. Cái ngày
chủ tịch nước ra lệnh tổng động viên. Từ đó khi nói cần có bàn tay minh họa cho
hùng hồn, thầy thường dùng tay trái xòe đủ năm ngón nhịp nhịp theo giọng điệu.
Bàn tay ba ngón
lành hai ngón cụt được cuộn lại thành nắm đấm khuôm vào trong. Thầy khéo
léo cầm phấn và cầm bút. Chữ thầy đẹp và thầy lấy làm tự hào, ít người biết
rằng thầy cụt mất ngón tay bóp cò và ngón tay đỡ báng.
- Thầy xem xem
nhé... xem nhé...! Lão Bàng thì thào
với Hiệu trưởng năm lần bảy lượt như vậy. Không biết Hiệu trưởng Chức đã nghe
chưa?
3
Tuy
xung khắc nhau nhưng hai thầy Vặn Ti và Gầu Toán lại có một số điểm tương đồng.
Ông trưởng ban
nhờ các thầy cô chủ nhiệm thu hộ một số khoản tiền thuộc đại diện cha mẹ học
sinh quản lí. Thầy Vặn Ti nhỏ to với thầy Gầu Toán :
- Đòi quyền
lợi cho giáo viên chủ nhiệm đi, thù lao phải mười (10%), nếu năm thì không thu,
kệ họ. Ta te nẹt học sinh đố mà thu được. Tối thiểu phải bảy phẩy năm
(7,5%).
Được thầy dùi
thụt thổi, Gầu Toán bật dậy, không cần thưa gửi mà đốp ngay:
- Các vị đồng
chí trả cho giáo viên chủ nhiệm bao nhiêu phần trăm! Nếu dưới mừoi thì các vị
đồng chí thu lấy mà quản.
Bất ngờ và kinh
ngạc, ông trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh tròn xoe mắt không nói được rõ “ậm...”
hay “ờ...”
- “ờ” thế là
đồng ý! Thầy Vặn Ti chớp lấy thời cơ và nói nhỏ đủ cho thầy Gầu Toán bên
cạnh nghe. Gầu Toán nãy giờ vẫn nhơn nhơn đứng, nói bồi dứt điểm:
- Xong! ổn.
Không nói đi nói lại nữa! ổn! ổn rồi! ổn cả!
Cả hai thầy đều
thốt lên chữ ổn, mừng như bắt được vàng.
Hiệu trưởng Chức
ngồi dự đang làm mặt tươi, thoắt giật mình, mặt nghệt ra, lòng tủi hổ.
Nếu đất dưới chân nứt ra được thì chắc chắn ông sẽ tụt xuống cho đỡ xấu cái bản
mặt làm thầy.
Ngoài sân lão
Bàng nghe được mà rung rung cành lá. Gió bắc chưa về mà lão đã thấy lạnh.
Hai thầy đều tránh
cái vi tính, tránh cái đèn chiếu và ghét cái gọi là bài giảng điện tử soạn bằng
chương trình Phao-ới-puồi (Powerpoint).
Khi biết phụ
huynh trực tiếp mua sắm thiết bị công nghệ thông tin, trao tặng cho nhà trường,
không có phần trăm cho giáo viên chủ nhiệm thì hai thầy càng bứt rứt khó
chịu.
Công nghệ thông
tin vào nhà trường, thầy trò phấn chấn. Hiệu trưởng tuyên bố có thưởng cho việc
soạn giảng bằng giáo án điện tử. Cùng một bài nhưng các thầy Chéo-nơ-ợt
(Download) từ mạng nhiều cách soạn giảng khác nhau, rồi thảo luận chỗ hay chỗ
được, khiến thầy Gầu Toán tẻn tò.
Riêng thầy Vặn
Ti thì bình tĩnh và cười nhạt.
Giờ toán học
sinh bảo:
- Thầy ơi dạy
bằng máy như các thầy cô khác đi!
Thầy Gầu toán
quát học sinh bằng một tiếng :
- ồn
.
Giờ văn học sinh
giơ tay phát biểu:
- Thưa thầy ta
học bằng đèn chiếu như các giờ môn khác chứ ạ?
Thầy Vặn Ti nhỏ
nhẹ với học sinh:
- Từ từ thế.
Học sinh bỏ học
thêm với hai thầy, đi tìm nơi học có đèn chiếu ( nhìn thôi cũng hiểu)
Cho đến khi nhận
tiền thừa giờ kém hơn các thầy cô khác và không có tiền thưởng thì hai thầy mới
nổi đóa.
Thầy Gầu Toán thì nổi đóa kiểu không giống ai: “ Ngắt điện đột ngột cũng
có cái cháy xèo”. Đó là cách đổi mới phương tiện giảng dạy của thầy .
Việc ấy rồi cũng
đến tai hiệu trưởng Chức, bằng một cú điện thoại:
- Thầy ơi chúng
em biết chuyện giật cầu dao cho cháy máy rồi.
Hiệu trưởng
nói với bảo vệ :
- Anh cứ như
thế...như thế...
Sau khi cứ như
thế ...như thế... thì ông bảo vệ gặp Hiệu trưởng Chức :
- Thưa anh đúng
như thế đấy ạ! Em thấy tay thầy này giật đóng, giật đóng cầu dao khi cả trường đang dùng đèn chiếu. Giật xong hắn ta đóng
lại ngay, rồi lỉnh vào chuồng xí. (Toa-loét)
Hiệu trưởng Chức thở
dài.
Một lần thầy
Gầu Toán giật đóng cầu dao điện xong, đang định lỉnh vào Toa-loét giả vờ
đi Toa-loét thì thầy gặp người. Người đang đứng sau cánh cửa Toa-loét là Vặn
Ti. Đang định hù dọa Gầu toán nhưng Văn Ti liền đổi ý đưa bàn tay
cụt ngón ra hiệu đừng giật mình. Hốt hoảng vụt qua, thầy Gầu chụp vội bàn tay
thầy Vặn Ti lắc lắc. “Hai tư tưởng lớn ghặp nhau”(!) Liên minh trên bệ
xí được hình thành. Bốn ánh mắt thông đồng. Giây khắc đó qua đi rất nhanh.
Thầy Vặn Ti rút
tay đi lúc nào không biết.
Thầy Gầu Toán có
cảm giác mình vừa túm phải con lươn con trạch gì đó trong hốc bùn: “Lợm”
Thầy Vặn Ti có
cảm giác như vừa chạm phải da thịt cô hồn dưới âm ti: “Tởm”
Thầy Vặn Ti có kiểu
nổi đóa riêng của thầy.
Sau khi cháy vài
cái máy chiếu. Tâm sự nhỏ to với kế toán trường vài lần, thầy làm đơn tố cáo.
“ Tên tôi là Trần Nhân
Phẩm, nguyên là tổ trưởng, nguyên là... tố cáo với các cấp có thẩm quyền...
Việc lạm dụng công nghệ thông tin để chuyển từ đọc chép sang nhìn chép. Việc
lạm dụng tiền đóng góp của cha mẹ học sinh để mua máy tính và đèn chiếu rẻ tiền
về trang bị cho tất cả các phòng học, nay đã hư hơn một nửa, có thầy Gầu
làm chứng) ... Tổng số tiền tham ô là...”.
Ký tên: Trần Nhân
Phẩm, giaó viên văn tại trường Trung học phổ thông Xuân Tươi
I
Hiệu trưởng Chức nhận được điện thoại yêu cầu lập danh sách tất cả giáo
viên và ghi rõ nhân thân của thầy giáo Trần Nhân Phẩm.
Ông trả
lời rằng trường tôi không có ai là Trần Nhân
Phẩm.
9/2012
(*) Truyện đã đăng ở đây: http://vietvantre.blogspot.com/2014/09/moi-2.html#more
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có nhận xét mới