6 tháng 12, 2018

Tuổi thơ với làng quê cổ kính.

Tác giả Nguyễn Trung Ngọc


2. Đi về đâu? Đường lớn đã mở


Khi cơn giông bão cải cách hết làm rung chuyển, cái làng quê cổ kính Thái yên ngỡ ngàng nhưng không hề dè dặt, bước những bước đi khác trước. Rồi người ta cũng nguôi dần, quên dần những gì đã xảy ra vì ai cũng cần phải sống. “Sửa sai” xong, cũng như bao vùng khác, làng quê tôi chuyển mình bước vào một thời kì mới: Làn sóng hợp tác hoá dào lên khắp làng trên xóm dưới. Những cụm từ mới “tổ đổi công”, “đội sản xuất” dần xuất hiện. Làng Thái Yên hình thành ba Hợp tác xã: Bình Hà, Bình Định và Bình Tiến. (Những cái tên này đến nay vẫn còn được giữ, tuy nội dung bên trong của nó đã ít nhiều thay đổi. Ví dụ, xưa có ba Ban quản trị và rất nhiều đội sản xuất thì nay không còn nữa…)
Hàng ngày, mọi người ra đồng đi làm theo tiếng kẻng của bà đội trưởng. Người chỉ huy mới không phải là những điền chủ, những “Lão nông tri điền” xưa nữa mà là những đảng viên của chi bộ, những người đã “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Một chiến dịch làm thuỷ lợi để “thay trời, đổi đất” được phát động để phá bỏ sự cát cứ ruộng đất, tạo nên những cánh đồng chung hợp tác, thẳng cánh cò bay, nhìn tít tắp tận chân trời. Cơ chừng “Thiên đường Chủ nghĩa xã hội” đang đến rất gần! Thanh thiếu niên trong làng nô nức theo tiếng gọi của “Anh chủ nhiệm”, lập thành những đội xung kích, cũng “ra trận” trên những cánh đồng hợp tác. Tôi học lớp năm thì bắt đầu được tham gia đi làm thuỷ lợi. Mỗi ngày đi làm được tính nửa công. Nghĩa là bằng ½ người lớn. Đào đất suốt ngày rất mệt, nhưng được ghi công cho gia đình để rồi đến vụ gặt được “điều hoà” thêm mấy chục cân thóc, đứa trẻ biết thương cha mẹ nào mà chẳng sướng. Hơn nữa đi làm ở đội, có các bác, các dì, các chị, các anh và bạn bè cùng lứa chẳng vui như ngày hội đó sao. Nhiều hôm được tham gia cùng mấy anh chị thanh niên đến tuổi trêu nhau, ném lén đất bùn làm lấm lem cả mặt mày trông thật ngộ và vui không kể hết. Lại có mấy chị tuổi mười tám, đôi mươi bị nghịch ướt sũng toàn thân, hằn rõ cả “sức xuân” dưới làn áo mỏng…Mấy đứa con nít chúng tôi còn thấy nao nao, nói gì các anh cùng lứa.
Lịch sử sau này đã chứng minh, hợp tác hoá là một chủ trương đã làm cho nông nghiệp nước ta không sao “cất cánh” được. Tâm lí ngàn đời “cha chung không ai khóc” lại trở lại thế chỗ cho chút khí thế xốc nổi thời kì đầu hợp tác hoá nông nghiệp. Nhất là khi chiến tranh phá hoại ở miền Bắc nổ ra, trai tráng trong làng lần lượt lên đường, lực lượng lao động của các đội sản xuất cứ nhỏ dần, nhỏ dần…Ông Kim Ngọc đã đúng, cả nước không thể không giải tán hợp tác xã để “khoán” trong nông nghiệp, mà thực chất là trả lại con trâu, cái cày và mảnh ruộng để người nông dân được thoát khỏi sự trói buộc của chủ nghĩa tập thể không hề phù hợp trong sản xuất và phân phối sản phẩm.
Dẫu sao, khí thế Xô Viết của mấy năm “Hợp tác hoá” đã làm cho hệ thống mương máng thuỷ lợi trở nên thuận lợi tưới tiêu hơn; Đồng ruộng được qui hoạch lại để trở nên bằng phẳng, rộng rãi hơn; Các nghĩa trang rải rác khắp đồng làng được qui tập lại, trở nên sạch – đẹp hơn nhiều. Ở cánh đồng trên, dân làng tôi gọi là đồng cao, sau kì cải tạo trở thành một vùng đất rộng rãi, tuy vẫn nứt nẻ, khô cằn nhưng rất tiện lợi cho bọn trẻ chúng tôi chạy thả diều, đá bóng và đánh trận giả trong dịp hè. Những ngày không đến trường, tôi thường được mẹ giao cho công việc đi nhặt phân trâu để gom dần đóng vào hợp tác lấy điểm. Tuổi nhỏ, quang gánh dài, nhiều hôm “tha” được gánh phân về đến nhà tôi thở cả ra tai. Vì thế đường ngoài đồng được uốn chỉnh cho dễ đi lại là một may mắn bội phần cho những đứa trẻ như tôi. Khi học đến bài thơ của Tố Hữu có câu: “Gánh nặng đường xa chẳng chuyển lay”, tôi tự nghĩ: có lẽ mấy chữ “gánh nặng đường xa” bọn học sinh thành phố không thể thấu hiểu bằng tôi được. Tôi đã cảm được “gánh nặng đường xa”, và cả gập ghềnh nữa, ngay từ khi mới mười một, mười hai tuổi.      
Làng tôi từ thuở nào đã có hai nghề: Nghề nông và nghề mộc. Và có thể, “Nhà Thánh Thợ” của Thái Yên xuất phát từ nghề thợ mộc. Nhà tôi vì thế có hai thành phần trong một gia đình: Bố tôi là công nhân, ăn gạo sổ; còn mẹ và mấy anh em tôi sống nhờ những hạt lúa của đồng quê hợp tác. Đàn ông của làng Thái Yên hầu hết theo nghề làm mộc. Nếu tính nghề phụ của làng thời kì hợp tác thì có thể coi bố tôi cũng là một “Ông tổ” quan trọng. Sau nhiều năm của tuổi thanh niên bôn ba sang Thái Lan, Lào, rồi cả làm cho Pháp trong nước, lại đi kháng chiến ở Việt Bắc vài năm, ông trở về làng xây dựng HTX mộc Bình Quang trong vai trò Chủ nhiệm. Xưởng mộc Bình Quang với “giám đốc” Năm Thu (Tên thường gọi của bố tôi, tên thật của ông là Nguyễn Trọng Thu) phát triển nhanh chóng, ảnh hưởng rộng ra toàn tỉnh Hà Tĩnh.
 Tôi còn nhớ rất rõ, những năm ấy bố tôi thường xuyên vắng nhà. Ông hay đi Hà Nội rồi đi Vinh, đến những nhà máy lớn tìm hiểu, đặt mua máy móc, thiết bị nhằm cải tiến bằng được công cụ sản xuất của xưởng mình. Có thời gian bố tôi đi nhiều đến nỗi mỗi khi thấy ông về là tôi mừng khôn xiết. Không phải mừng vì có quà cáp gì  mà  mừng vì đêm được ngủ với bố, cắt được cơn sợ ma hằng đêm phải ngủ một mình ở nhà ngoài, không được ngủ với mẹ và em ở trong buồng. Ở nhà quê thời ấy bọn trẻ chúng tôi phải chịu nỗi sợ hãi vì cái nạn nhát ma đến gầy cả người. Thời gian ở nhà, nhiều đêm tôi thấy Bố gần như thức trắng ngồi trăn trở với những bản vẽ, những thiết kế mới về máy móc của xưởng. Nhiều khi, có lẽ sướng quá vì một sáng kiến mới đang hình thành trên giấy, ông say sưa trình bày cả với đứa con nhỏ là tôi kế hoạch ngày mai sẽ bắt đầu dựng một cỗ máy mới. Tôi còn nhớ, một hôm Bố đi làm về muộn, cả nhà phải chờ cơm. Vừa bước vào nhà, ông lắc đầu liên hồi, xúc động kể với mẹ con tôi: “Cậu vừa chết hụt, sáng nay cho chạy thử chiếc máy liên hoàn vừa làm xong, mình tính toán sai một chút, thanh gỗ bị lưỡi cưa cuốn theo bay sượt qua mang tai như một cây lao, chỉ tí nữa thì xong rồi… Cũng may là máy chạy thí điểm, tự mình điều khiển máy chứ không dám để công nhân làm”. Hồi này Bố tôi đang sáng chế một chiếc máy liên hoàn vừa dùng để rọc gỗ, lượn cong, vừa đục lỗ, làm mộng; sau lần đầu thất bại, ông chỉnh sửa và trở thành chiếc máy đem lại một năng suất vượt trội trong sản xuất.
Với thành tích đó cùng nhiều sáng kiến khác, năm đó bố tôi đươc đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc. Lần đầu tiên tôi được nghe nói về cảnh đẹp vịnh Hạ Long chính là cái năm Bố đi dự Đại hội rồi được đi tham quan về kể lại, khoảng năm 1964 gì đó. Năm sau, có một hôm, mẹ tôi kéo thằng con cả là tôi vào lòng nói chuyện như nói với người lớn: “Trên người ta nhủ cậu làm hồ sơ để xét phong Anh hùng lao động mà cậu không chịu làm, chỉ nói với mự: Mình làm việc cho tốt là được rồi, anh hùng anh hiếc gì… Cậu mi gàn lắm!” Sau này lớn lên tôi càng hiểu bố hơn: Ông là người không màng gì đến danh lợi. Cũng trong khoảng thời gian ấy, Có lần ông còn nói với tôi: “Ngọc này! Trong tỉnh định điều cậu vào làm ở ty công nghiệp, làm phó ty. Con muốn cậu đi hay ở nhà?” Ông hỏi vậy để tham khảo thêm từ một đứa con nhỏ còn trong đầu chắc đã có chủ kiến. Chỉ thấy ông vẫn ở quê, vẫn làm chủ nhiệm Bình Quang cho mãi đến năm cả nhà tôi rời Thái Yên lên miền Tây Hà Tĩnh.
Không thích được vinh danh nhưng rất trọng lẽ công bằng. Một lần, tôi thấy bố có vẻ rất giận, nói với tôi: “Có chuyện này Cậu nhất định phải làm”. Rồi tôi thấy ông viết đơn thật: Đơn khiếu nại phòng giao thông huyện ĐT đã lấy cắp bản quyền sáng chế một chiếc máy kích của ông đem tham gia triển lãm công nghiệp tỉnh và đoạt giải nhất. Về sau trong tỉnh vẫn nghe đồn mãi về chuyện này. Bố tôi cũng chẳng làm gì to chuyện khi những người “lỡ sai” đã biết nhận lỗi. Chiếc máy kích này là một công cụ dùng để trợ lực hết sức hiệu quả, bố tôi “Nghĩ ra” để di chuyển cả một bãi gỗ lớn từ Bến cưa đi nơi khác. Chả là lúc bấy giờ, vì việc cần phải làm lại xưởng cưa gỗ, đưa việc xẻ gỗ bằng tay của những người thợ xẻ sang xẻ máy công nghiệp. Có một công việc tưởng chừng như không thể làm được vì quá phiền phức và khó khăn là chuyển một khối lượng gỗ lớn từ bến cũ về nơi mới cách đó chừng năm trăm mét. Trong Ban quản trị nhiều người không đồng tình vì cho rằng đấy là việc không thể. Bố tôi đảm nhận trước Hợp tác với một lí lẽ đơn giản: “Không thể cứ còng lưng kéo cưa mãi được, phải đưa máy móc vào, phải giải phóng sức lao động, thay đổi cách làm ăn”. Chính vì thế mà ông đã đi rất nhiều nơi để học hỏi, để làm theo những điển hình tiên tiến. Ông đã nghĩ ra chiếc kích đơn giản nhưng hiệu quả vô cùng. Một mình ông với sự phụ giúp của tôi, sau một thời gian không lâu đã chuyển được toàn bộ bãi gỗ khổng lồ từ Bến cưa sang nơi mới. Chiếc kích ấy khi Phòng giao thông ĐT lấy để triển lãm được thuyết minh là một công cụ trợ lực cải tiến dùng để kéo cả những dầm cầu nặng bắc qua sông một cách nhẹ nhàng, thay cho cả hàng chục người lực lưỡng.
(Còn nữa)




Chuyện cũ nhớ lại

Tác giả: Nguyễn Trung Ngọc

NTN: Có thể đây chỉ là những chuyện rất riêng của tôi, không liên quan gì đến ai…Nhưng là những chuyện thật, chuyện “trần trụi”, không bơm, không tô vẽ gì thêm nên biết đâu bạn bè, người thân lại thích đọc bởi một lí do nào đó. Vì thế tôi đăng lên trang cá nhân của mình như một lời tâm sự, một khúc tâm tình của một Ông Đồ đã về làng.
Xin mượn mấy câu thơ của một Người Thầy đáng kính để dẫn nhập câu chuyện:
“Điều chắc chắn là con không hèn hạ
Lượm rác đời làm giá hư vinh
Mót ti tiện bơm lên thành nghĩa cả
Kìa trời xanh con thả cánh diều lên”

1. Sự biến Cải cách ruộng đất.
         
Những người cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đánh đổ tầng lớp xã hội giàu có, “có máu mặt” nhất lúc bấy giờ: Địa chủ. Đây là lực lượng đang nắm giữ TLSX và cũng là của cải xã hội chủ yếu. Họ có sức mạnh lớn nhưng đã phải chịu thua trước sự trỗi dậy của người nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tôi sinh ra trong thời kì này, không biết gì về cải cách. Chỉ khi lớn lên mới được bố tôi, chưa hết bàng hoàng sau sự kiện “long trời lở đất”, kể lại cho tôi bao nhiêu chuyện của những năm kinh hoàng ấy, dù tôi mới chỉ là một đứa bé. Bố tôi là đảng viên nhưng là con “cường hào” (Ông Nội tôi trước có làm Lí gì đấy tuy đã mất từ lâu, khi Bố tôi chưa đầy 5 tuổi), không thuộc “thành phần cơ bản”, nên chẳng có “vai vế” gì trong cải cách. Mẹ tôi kể, một lần cả xóm tập trung đấu tố trên một lô đất trống đầu làng. Mấy “ông đội” và hệ thống “rễ, chuỗi” ít hiểu biết làm mưa làm gió, hô hoán người nghèo hành lên hạ xuống lôi ra bằng được những “tên bóc lột ghê tởm” của làng. Thấy “ghê sợ” quá (Chữ dùng của Bố tôi), Bố tôi đứng dậy. Mẹ tôi ngồi bên cuống quýt giật áo Bố, nhưng không kịp nữa rồi...Không nén nổi bức xúc, Bố tôi nói liền một mạch, cho rằng đội làm thế là không công bằng, bà con đấu tố thế là oan cho nhiều người, chúng ta cần bình tĩnh soi xét kĩ lưỡng, chờ ý kiến của trên, tránh sai lầm có thể mắc phải…
          Ông đội phó chỉ đạo buổi đấu tố hôm đó gần như nhảy ra khỏi bàn, chỉ thẳng vào Bố tôi: “Quốc dân đảng! Quốc dân đảng! Phản động chính hiệu! Giám bênh vực địa chủ, phá hoại công cuộc cải cách của toàn đảng, toàn dân. Trên đã quán triệt, phải đấu tranh triệt hết những phần tử chống đảng, chống nhân dân”. Thế là bố tôi bị kết tội là “phần tử chống đối cải cách” và được đưa đi với hai “rễ chuỗi” cốt cán của đội cải cách áp giải là 2 anh cố nông trong làng mà theo lời kể của mẹ, tôi cứ hình dung rất giống với Chí Phèo, Binh Chức – nhân vật trong tác phẩm Nam Cao. Ông bị đưa lên huyện tạm giam để “xem xét”. Nhưng chỉ một tuần sau thì Bố tôi được thả về. Có lẽ những người đảng trên huyện cũng thừa thấy lòng trung thành đến mức tội nghiệp của những người như ông.
         Sau này, nhiều lần tôi hỏi lại Bố: “Nhưng hồi đó Bố là Đảng viên cơ mà?”. Bố tôi chỉ lắc đầu: “Quả tình Bố cũng không sao hiểu được sao lại có một thời kì loạn li như vậy nữa. Có lúc Bố đã nghi ngờ có một lực lượng nào khác đang phá hoại Đảng”. Tôi cười thử Ông: “Thế Bố không giận Đảng à?” Ông hơi buồn nhưng lời nói vẫn đầy đức tin: “Đảng không sai đâu con! Chỉ là mấy người làm bậy thôi mà!” Lớp Đảng viên như Bố tôi, vào Đảng trong thời kì giành chính quyền, bắt đầu “Chín năm kháng chiến”, lòng tin vào Đảng gần như không thể có gì lay chuyển.
          Làng Thái Yên quê tôi nằm trên dải đồng đất chiêm trũng cuối huyện Đức Thọ tiếp giáp với Can Lộc. Nhìn về phía Đông năm cây số là dãy Hồng Lĩnh xanh cao xen đôi vùng núi trọc với những tảng đá lô nhô như có đàn voi đang nằm nghiêng bên sườn đồi cỏ. Lớn lên thấy núi Hồng thật thơ mộng và hiền hoà nhưng trong kí ức tuổi thơ tôi, ngàn Hống là nơi ma thiêng nước độc rất đáng sợ: Cửa Trẹm với muông thú đầy đàn. Sáng sớm khi mặt trời từ sau biển Đông nhô lên chiếu những tia nắng kì ảo xuyên qua kẻ lá, thường có những đàn khỉ đông cả trăm con đu cành hú hét. Chúng biết trêu cả các bà các chị lên núi sớm hái củi; Bãi Vọt xưa là cả một vùng đất bạc màu cằn cỗi chỉ có cây Vọt mọc nổi trên vùng đất hoang thành bãi. Nước trong động Khe Máng chảy ra có màu trong đen rất sợ; Sườn bên đông là đất Công Khánh trồng được sắn khoai, thời cải cách chính quyền dùng làm nơi cải tạo – lưu đày nhiều địa chủ.
Bố tôi kể lại rằng: Làng tôi có một Địa chủ cỡ lớn cũng bị giam giữ nơi này. Đó là Ông quan Hàn Nguyễn Minh Châu. Dân làng quen gọi là Ông Hàn Châu và nhắc tới Ông như một người đặc biệt, đáng nể sợ. Tôi còn nhớ rất rõ nhiều câu chuyện Bố tôi kể về Ông Hàn này (Vì sao gọi là “Hàn” thì tôi cũng mơ hồ, hình như ông được triều đình phong sắc Hàn lâm…gì gì đấy). Từ thời nảo thời nào, Cụ Hàn đã bỏ tiền riêng của mình làm được nhiều việc lớn cho làng mà mãi tận ngày nay nhà nước ta mới phát động các vùng nông thôn làm được. Mấy chữ ĐIỆN – ĐƯỜNG – TRƯỜNG – TRẠM Cụ làm chỉ thiếu cái chữ đầu (Điện) vì thời bấy giờ là chưa thể còn thì Cụ đã mua đá từ đâu về lát toàn bộ đường đi lối lại trong làng làm cho “giao thông nông thôn” làng tôi hơn hẳn cả vùng. Trong khi những làng cạnh bên vào mùa mưa phải xắn quần trượt trên những lối đi chung với trâu bò bị xéo nát thì dân Thái Yên ung dung gõ guốc trên nền đường lát đá tảng được nước mưa dội rửa cho sạch bóng. Ai từng biết làng tôi thời kì này hẳn không quên những “con đường Thái Yên” vừa nói. Các tuyến đường đó mãi tận những năm 70 của thế kỉ trước, khi ở nông thôn bắt đầu biết dùng xe đạp nhiều lên thì người ta mới thay dần bằng đường rải sỏi biên hoà cho thuận tiện đi lại.
Không biết Cụ Hàn Châu có được ai lãnh đạo không mà chuyện học hành của con trẻ trong làng cũng được Cụ chăm lo đến lạ: Hết chuyện làm đường Ông lại bỏ tiền xây cất một ngôi trường cả huyện cũng khó đâu sánh được. Trường xây kiểu nhà Tây: Mái lợp ngói Tây; Tường dày cả 2 hai gang tay; Cửa hai lớp trong kính ngoài chớp; Hành lang phía trước rộng cả 4 – 5 mét…Tôi bắt đầu đi học thì đây là ngôi trường đầu tiên. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ thế hệ như tôi sinh ra ở cái làng cổ kính quê tôi phải nói thế này mới công bằng: Ơn Cụ Hàn! Những bước đi ban đầu của chúng con nhờ nhiều vào những đồng tiền hào phóng của Cụ! Thật thế, suốt cả bốn năm cấp một tôi tung tăng đến lớp với khăn quàng đỏ trên vai dưới chế độ mới là tung tăng dưới mái trường do chính Cụ Hàn Châu tự bỏ tiền xây cất để tặng làng mà thật ra cho tận đến nay, sau hơn nửa thế kỉ, học sinh tiểu học nhiều nơi chưa chắc đã có. Bốn năm đầu đời đi học tại đây, đã bao lần tôi được hưởng niềm sung sướng của đứa trẻ con đứng dưới cờ nhận sự tuyên dương của nhà trường vì thành tích học tập mà ấn tượng nhất là năm cuối cấp được công nhận học sinh giỏi toàn tỉnh cùng một bạn trong lớp là Nguyễn Minh Đường, cháu chắt trong dòng họ Cụ Hàn Nguyễn Minh Châu. Đường sau này lớn lên cùng cả nhà ra Hà Nội, nghe đâu về sau trở thành giám đốc, tổng giám đốc trong một ngành gì đó. Chúng tôi chơi thân với nhau ở tuổi tiểu học nhưng lớn lên Đường ra Hà Nội còn tôi cũng rời quê nên không còn biết nhiều về nhau nữa. Chơi với Đường tôi sướng nhất là bố hắn dạy cấp 3, nhà có một tủ sách với đầy những cuốn mà tôi thấy là như mèo thấy mỡ. Đó là Tây Du kí, Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử, Những người khốn khổ…Đường mở trộm tủ bố cho tôi mượn đọc dần cả kho sách nhà nó. Những sách thành bộ như Tam quốc diễn nghĩa hắn chỉ cho tôi mượn từng tập, mỗi tập một vài hôm, đọc xong mới được mượn tiếp với lời dặn đi dặn lại: Không được để quăn mép một tờ nào, bố tao mà biết ông giết…Nhiều bữa bận đi học, bận việc mẹ giao, tôi phải vừa thổi cơm vừa tranh thủ đọc bên bếp lửa cho kịp hạn trả lại Đường. Khổ nhất là có lần Bố tôi thấy con say sưa với sách mới hỏi : “Sách gì vậy con?” Tôi trả lời nhanh: “Sách Tam quốc bố ạ!” Bố tôi lại gần: “Tam quốc nào, Tam quốc diễn nghĩa ấy à?” Tôi vẫn không rời mắt khỏi sách vừa “dạ” khá dõng dạc vì tưởng được bố khen. Ai dè ông bước lại cầm lấy sách trong tay tôi: “Ai cho con đọc sách này! Sử nước nhà chưa biết, lại lo đi đọc sử Tàu. Thôi đi, con hãy đọc hết sách nước mình đã rồi đến những thứ này!” Và ông cấm tôi thật…Thế là tôi phải đối phó bằng cách trốn lên gác rơm chuồng trâu nhà bà Huân bên cạnh vào những giờ có thể để ngốn cho hết những bộ sách bị cấm kỵ đang dở nghiện này. Phải nói cái lứa học trò bọn tôi thuở đó ham đọc sách vô cùng. Gần nhà tôi hồi đó còn có 2 thằng bạn là Nguyễn Đăng Phát và Trần Mạnh Hoan cũng say sách mê mệt. Chúng nó mà thấy tôi mượn được sách là thế nào cũng đòi đọc chung. Có hôm ba cái đầu cùng chụm lại đến tận khi trời tối mịt để cùng ngấu nghiến cho xong một hồi trong “Thuỷ hử”: “Quận Hoành Hải Sài Tiến tiếp khách / Núi Cảnh dương Võ Tòng đánh hổ”. Nếu nói “văn hoá đọc” rất cần thì có thể hồi đó lũ chúng tôi cũng đã góp nhặt được khá nhiều. Không như các cháu tôi bây giờ, nó không đọc sách nữa. Tuy nhiên, chơi game, chơi điện thoại thì mới 5 tuổi chúng đã là thầy của ông. Thậm chí còn sớm hơn thế nữa: Cháu nội tôi 4 tuổi chưa biết chữ mà không hiểu sao biết tự tải về những bản nhạc nó thích rồi tự đứng uốn mình nhảy theo nhịp điệu trong chiếc điện thoại phát ra. Mà nó làm nhanh chóng, chính xác như bộ đội Cụ Hồ xưa thực hiện điều lệnh vậy!
          Cái xóm đầu làng của tôi là mảnh đất phát về sự học văn hay sao ấy: Cả tôi và hai thằng bạn cùng xóm Phát, Hoan sau này cùng vào lớp Năng khiếu văn của tỉnh Hà Tĩnh rồi hai đứa kia cùng đi học trường Đại học tổng hợp Lô-mô-nô-xôp ở Liên Xô, còn tôi ở lại với “Ngọn cờ hồng trên quê hương Xô Viết”(*). Phát học xong về làm tại TTXVN ở Hà Nội, Hoan theo ngành luật trong quân đội, mới ngoài 30, đang là thượng tá, trưởng ban điều tra của Bộ tư lệnh QK4 thì đột ngột qua đời. Nhưng, cả với 2 thằng bạn này, tôi cũng chỉ gần gũi, học hành với chúng đến đầu năm cấp 3 (THPT) mà thôi. Năm 1968, chiến tranh quá ác liệt. Bố tôi sợ mất con nên đã chuyển tôi khỏi trường cấp 3 Trần Phú, nơi có "lớp đặc biệt văn" của tỉnh lúc bấy giờ để lên học với một trường cấp 3 Đức Thọ nơi sơ tán.

Trở lại chuyện Cụ Hàn Châu. Sau những gì Cụ để lại cho con em trong làng về việc học hành, túi tiền của Cụ còn được dốc ra xây tiếp một Nhà thương rộng rãi, chỉnh tề nhất để chữa bệnh cho dân làng. Khi tôi lớn lên đã thấy toà Nhà thương này đứng sừng sững trên một khu đất rộng cuối làng từ bao giờ theo kiểu kiến trúc cũng mang hơi hướng Pháp với những hành lang rộng có vòm cuốn ở trên. Góc trước Nhà thương là một cái giếng to, sâu được đào để lấy nước phục vụ cho bệnh nhân và y sĩ. Mãi tận sau này giếng vẫn tồn tại và dân làng vẫn ra đây lấy nước vì mọi người nói rằng nước giếng Nhà thương Cụ Hàn Châu rất ngọt. Sau này, thời chính quyền nhân dân, Nhà thương này biến thành khu trạm xá của xã, chung cho hai làng Thái Yên và Thanh Lạng. Nhưng, cho đến hôm nay, khi nói về nơi này dân làng vẫn quen gọi Nhà thương Cụ Hàn hơn là Trạm xá xã.
          Còn một đóng góp khác của Cụ Hàn Châu cho làng nữa: Từ thời xa xưa ấy Cụ đã cho làm một “đường dẫn thuỷ” để đưa nước về tận khu đồng cao, khắc phục việc thiếu nước cho cả một cánh đồng thường xuyên bị hạn hán không trồng trọt được. Ngày nay công trình thuỷ lợi này vẫn còn vết tích. Những người hiểu biết trong vùng ai cũng gật gù bái phục tầm nhìn của ông địa chủ Thái Yên này. 
          Như vậy, qua bao thăng trầm, dấu tích để lại của Địa chủ Nguyễn Minh Châu với làng Thái Yên vẫn còn ba công trình quý giá : Trường Mầm non Thái Yên được tôn tạo từ ngôi trường cũ; Trạm xá xã Thái Yên xây dựng lại trên cơ sở Nhà thương cũ do Ông Hàn Châu kiến thiết và mương dẫn nước  nhằm đưa nước về đồng cao, dân làng gọi là “Thuỷ quan” (Quan Hàn Châu). Chỉ có Đường làng là đã bê tông hoá cho phù hợp với phương tiện giao thông mới nên không còn dấu vết xưa.
          Có điều này cũng cần được nói thêm: Những công trình để lại cho đời ấy Cụ Hàn không hề yêu cầu phải được mang tên Cụ giống với nhiều người trong thời đại mới chúng ta. Chỉ là các thế hệ người làng biết công đức của Cụ Hàn nên truyền cho nhau biết đấy là đường Cụ làm, đấy là trường Cụ xây, đấy là Nhà thương Cụ đã kiến thiết hay đấy là mương nước Cụ đã cho đào!
          Còn nhiều chuyện về địa chủ Nguyễn Minh Châu người Thái Yên vẫn truyền kể lại sau này. Ví như ông là người chống mê tín dị đoan rất kịch liệt. Một năm nọ, làng tổ chức rước kiệu, đưa các vị thần ra khỏi đền “vi hành” một vòng quanh làng. Lễ xong, thần ứng nghiệm nhập vào một trung niên hay cầu cúng trong làng. Anh này nhảy lên kiệu, ngồi lắc lư, uốn éo và chỉ tay ra lệnh cho đám người được bố trí làm phu kiệu bắt đầu một hành trình hết sức kì lạ. Họ không đi trên đường với những bước đi bình thường, vững chắc như vốn có mà khi thì chạy ào xuống ruộng lóp ngóp khiêng kiệu giữa vũng nước, khi lại leo bừa lên những gò đống cạnh đường đầy những cây cọc, đất đá ngổn ngang khiến cho nhiều bàn chân trầy da toé máu. Tóm lại, dòng người rước kiệu đông như kiến cứ nhốn nháo, nghiêng ngả di chuyển từ xóm dưới đến làng trên trong tiếng kèn trống vang động cả một vùng, theo sự chỉ dẫn của “thần” đang ngồi chễm chệ trên kiệu. Đám đông phấn khích bám theo ngày càng đông. Những bộ mặt vừa hãnh diện vì được bước đi trong đám rước “thần”, vừa tỏ ra rất lạ lùng vì đường đi của thần tiên không giống với người trần: nơi nào thần cũng có thể đi, dù là băng qua mương nước hay giẫm lên đống gạch đá, mảnh chai…máu chảy ròng ròng.  Giữa khi đang là đỉnh điểm của sự “lên đồng”, bỗng Cụ Hàn xuất hiện với cái gậy ba-toong quen thuộc trên tay. Cụ đi nhanh lên phía trước đoàn người, đến chỗ tốp người khiêng kiệu đang bước những bước xiêu vẹo kiểu quỷ thần. Chặn đoàn rước kiệu lại, Cụ cầm gậy chỉ thẳng lên vị thần (ông đồng) đang ngồi trên kiệu hét to: “Xin thần nghe tôi nói đây! Đã là thần linh thì phải chỉnh tề, đứng đắn, đi đứng có lối có đường. Thần gì lại cứ ngả nghiêng, uốn éo như con đĩ! Thần có tử tế thì dân làng rước trở lại đền, còn như thần không nghe lời tôi thì xuống mà tự đi lấy.” Rồi Cụ huơ gậy mấy vòng chỉ vào đám phu kiệu: “Còn chúng mày! Liệu hồn đi đứng cho nghiêm chỉnh, thằng nào còn nhún nhảy, vật vã không đi đúng đường, đúng lối tao đập gãy chân ngay!” Sau những lời đanh thép của Cụ Hàn, thần (ông đồng) bỗng ngồi lại ngay ngắn trên kiệu không dám ra oai chỉ trỏ bừa bãi nữa. Còn đám người khiêng kiệu thì cứ thẳng lưng mà khiêng, thẳng đường mà đi vì ai cũng sợ ăn gậy của Cụ Hàn. Dân làng nhiều người có sợ “thần” thật nhưng còn sợ Quan Hàn hơn. Đối tượng như bố tôi thì được một bữa cười khoái trá. Đám rước kiệu của làng hôm đó, sau “sự kiện” Ông Hàn Châu can thiệp, rẽ một bước ngoặt căn bản. Còn chuyện đúng sai đến nay vẫn còn khối người chưa chịu.
          Nghe câu chuyện này của làng mình tôi cứ nghĩ đến chuyện Tây Môn Báo trong Sử kí Tư Mã Thiên.
          Thời Nguỵ Văn hầu, Tây Môn Báo làm lệnh doãn huyện Nghiệp. Báo họp các bô lão, hỏi xem dân khổ vì nỗi gì. Các bô lão nói: Khổ vì chuyện Hà bá cưới vợ. Quan tam lão huyện Nghiệp và thầy Đô lại hằng năm thu thuế của dân có cả mấy trăm vạn, rồi bỏ ra hai, ba mươi vạn cưới vợ cho Hà Bá, còn bao nhiêu chia nhau bỏ túi với bọn thầy cúng, cô đồng. Bọn cô đồng đi lùng con gái các nhà nghèo hèn, thấy cô nào có nhan sắc thì bảo đáng mặt làm vợ Hà Bá, rồi cưới liền tay. Cô gái được tắm gội sạch sẽ, được may quần áo bằng thứ the lụa mỏng và được để ở riêng ra một nơi ăn chay giữ giới. Rồi họ để “cô dâu” ngồi lên giường mà thả xuống Hoàng Hà. Chiếc giường chìm dần, mang theo cả cô gái xuống với Hà Bá.
          Những nhà có con gái đẹp sợ bọn thầy cúng, cô đồng chọn con mình, phải đem con đi trốn. Trong thành ngày một thưa dân và dân tình ngày thêm nghèo khổ. Cái tục cưới vợ cho Hà Bá đó đã có từ lâu lắm. Dân gian có câu rằng: “Nếu không cưới vợ cho Hà Bá, thì nước sông Hà sẽ dâng lên, làm chết hết dân”. Tây Môn Báo nghe vậy liền bảo: “Khi nào cưới vợ cho Hà Bá, xin tam lão, thầy cúng, cô đồng và các bô lão hễ đưa cô gái ra bờ sông Hà, thì nhớ báo cho tôi biết, tôi cũng đi đưa”.
          Đúng ngày đã định, Tây Môn Báo đến bờ sông Hà, hội họp với mọi người. Các tam lão, lại thuộc, hào trưởng, bô lão đều đến đông đủ, cùng với dân chúng đến xem có tới hai, ba ngàn người. Cô đồng là mụ gái già đã bảy mươi tuổi. Bọn đệ tử gái tuỳ tòng có đến mươi người. Tây Môn Báo truyền: “Gọi vợ Hà Bá lại đây xem xấu đẹp thế nào”. Tức thì cô gái trong màn bước ra, tới trước mặt quan lệnh doãn. Báo nhìn cô gái bảo rằng: “Cô này không đẹp, xin phiền cô đồng cả xuống báo cho Hà Bá biết rằng còn phải tìm một cô đẹp hơn thay thế, ngày mai sẽ nộp”. Lập tức ra lệnh cho đám lại tốt ôm cô đồng cả quăng ra giữa sông. Một lát sau, Báo nói: “Sao cô đồng cả đi lâu vậy, các đệ tử gái xuống tìm đi, mau lên!” Đám lại tốt lại ôm một cô đệ tử liệng ra giữa dòng. Một lát sau Báo lại nói: “Cô đệ tử đi sao cũng lâu vậy? Cho một cô nữa đi tìm, mau lên!”. Một cô đệ tử thứ hai được liệng tiếp xuống sông. Rồi Tây Môn Báo nói: “Cô đồng cả và các đệ tử cô đều là đàn bà con gái không trình bày nổi câu chuyện. Xin phiền tam lão xuống trình bày giúp. Lại liệng một tam lão xuống sông. Tây Môn Báo quay mặt về phía sông, đứng đợi hồi lâu. Các bô lão lại thuộc và mọi người đứng xem đều sợ khiếp vía. Tây Môn Báo quay lại bảo: “Cô đồng cả và viên tam lão đều chẳng thấy về, làm thế nào bây giờ?” Và muốn sai một viên lại thuộc và một vị hào trưởng xuống sông đi tìm. Bọn này dập đầu xin tha. Tây Môn Báo bảo: “Thì đợi thêm chút nữa”. Một lát sau Báo nói: “Thầy thừa đứng lên! Xem cái điệu này, Hà Bá lưu khách lâu quá, thôi cho bọn thầy về!”
          Dân chúng và lại thuộc huyện Nghiệp đều sợ hết vía, từ đó cạch không dám nói chuyện cưới vợ cho Hà Bá nữa.
          Tây Môn Báo huy động dân chúng đào mười hai con kênh, dẫn nước sông Hà vào ruộng, ruộng được tưới nước đầy đủ. Nhờ có công trình thuỷ lợi ấy, nhà nào nhà ấy đều được no đủ. Mười hai con kênh cắt ngang đường ngự đạo. Đến khi nhà Hán lên trị vì, quan trưởng lại cho là mười hai cái cầu trên mười hai con kênh cắt ngang đường ngự đạo gần nhau quá, không tiện. Ông định rút bớt một số cầu. Bô lão và dân chúng huyện Nghiệp không đồng ý, cho rằng đó là sự nghiệp của ngài Tây Môn, mà sự nghiệp đáng làm gương mẫu của một bậc hiền giả thì không nên sửa đổi. Rốt cuộc, quan trưởng phải nghe theo ý dân. Còn tiếng tăm Tây Môn Báo, lệnh doãn huyện Nghiệp, lẫy lừng khắp thiên hạ, ân huệ thấm nhuần đời sau…                                     
(Tôi đưa luôn câu chuyện về Tây Môn Báo trong sử kí Tư Mã Thiên hầu các bạn đọc cho tiện)
Có lẽ ở đâu và thời nào cũng vậy, “Thương dân, dân lập đền thờ / Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương”. Cụ Hàn Châu của làng Thái Yên quê tôi sau hơn mấy chục năm chìm vào quên lãng thì sau chiến tranh chống Mĩ, một cán bộ quân đội từng sống và biết khá nhiều về Cụ là ông Nguyễn Đăng Đề, đã “chạy” tận Trung ương nhưng không phải là chạy chức, chạy quyền mà là xin được minh oan cho địa chủ Hàn Châu và công nhận liệt sĩ cho mười “liệt sĩ thật” nhưng do thất lạc hồ sơ nên có người hơn cả nửa thế kỉ nay không được ai biết đến. Đảng uỷ và chính quyền địa phương trước ý kiến xác đáng của anh Đề đã đồng ý vinh danh Cụ, đưa linh vị Cụ vào thờ ở Nhà Thánh làng, tôn làm bậc Thánh của Thái Yên. Làng tôi có tục, có lẽ cũng khá đặc biệt, là có một đền thờ của làng gọi là Nhà Thánh Thợ. Cứ ai trong làng nổi danh, đóng góp cho làng xứng đáng, đáng bậc thánh hiền sẽ có một vị trí để thờ trong Nhà Thánh này. Cách Nhà Thánh Thợ chừng hai trăm mét còn có một ngôi đền làng khá to và một ngôi chùa tầm trung là chùa Vạn Phúc. Cả ba ngôi đền – chùa này tạo nên một vùng đất thiêng mà bọn trẻ chúng tôi cứ nổi da gà mỗi lần đi qua dưới lùm cây rậm rạp. Thời kì Hợp tác hoá, đền biến thành kho HTX, rồi sau đó bị dỡ bỏ hai dãy nhà tả, hữu từ bao giờ không rõ. Tuổi thơ, dù sợ hãi, nhưng tôi vẫn cùng lũ bạn “phá phách” khu này khá nhiều: Lúc thì trèo lên tận ngọn cây đa cao lớn sau đền bắt tổ chim Cà cưỡng; khi leo lên gác chuông cổng Nhà Thánh để được nhìn ra xa phía cánh đồng tiếp giáp với xã Đức Thuỷ; lại có lúc giữa trưa mang chiếc nỏ với cả bó mũi tên, lục lọi từng lùm cây, tìm bắn mấy con cò hương hay đậu trong bờ rậm rạp.
Vậy là, ở Nhà Thánh của làng, người đã có nhiều công đức với dân – địa chủ Nguyễn Minh Châu, cuối cùng đã được thờ phụng một cách cung kính, đàng hoàng dưới chế độ cộng hoà – dân chủ với sự góp công rất lớn của một trung tá, chính uỷ về hưu. Anh Nguyễn Đăng Đề là cháu gọi bố tôi bằng cậu. Mẹ anh và bố tôi là con cô con cậu. Hai người đồng thời là bạn thân của nhau dù anh còn kém bố tôi hơn chục tuổi. Anh cũng là một đội viên thân tín của bố tôi trong đội du kích của làng mà bố tôi là chỉ huy, thời kì chống Pháp. Năm 1947, anh vào quân đội, trở thành một trong những người lính vệ quốc đầu tiên của làng. Anh Đề không hề có quan hệ họ hàng, bà con gì với Cụ Hàn Châu cả. Chỉ là thấy việc đáng làm thì anh làm. Ngày làm lễ rước linh vị Cụ Hàn Nguyễn Minh Châu ra Nhà Thánh của làng, Ông Nguyễn Minh Cần, có thời từng làm thông phán của Pháp, khóc mà nói với Anh Đề rằng: "Không có anh, Bố tôi mãi mãi phải ngậm oan nơi chín suối". Hiện anh Đề vẫn khoẻ mạnh, minh mẫn, ra Vinh sống với con, ở cách nhà tôi chỉ chừng nửa cây số. Để viết lại những dòng này tôi đã phải gặp anh hỏi thêm nhiều chi tiết. Anh là một nhân chứng rất đáng tin cậy.         
Tôi có Nhấn mạnh việc Cụ Hàn Châu được minh oan và vinh danh bởi trước đó tôi chưa nói rõ chuyện này: Nói là địa chủ lớn nhưng Cụ Hàn chưa thuộc hàng địa chủ lớn nhất của làng tôi. Trong cải cách tuy Cụ không bị xử tử hình nhưng bị đưa lên đày ở trên núi Hồng Lĩnh (Phần trên tôi đã đề cập đến chi tiết này). Nếu Cụ là người làng khác có khi đã bị xử bắn mấy lần. Bởi bấy giờ có qui định mỗi làng phải bình cho ra mấy địa chủ và theo tỉ lệ, cứ mấy địa chủ thì có một người phải bắn. Nên có những làng nghèo, địa chủ của họ có khi chưa bằng trung nông nơi khác. Cái sai lầm này trong cải cách ruộng đất nhiều người đã rõ. Cụ Hàn Châu khi bị đày lên núi tuổi đã cao. Sức già không chống chọi nổi với xứ ngàn Hống ma thiêng nước độc, Cụ chết trong cô đơn và đói rét. Mãi một thời gian sau, con trai Cụ Hàn là ông Nguyễn Minh Cần phát hiện xác Cụ đã thối rữa, mối đùn lên vùi lấp ở cái lỗ xí sau trại, mới gom lại và xin được chôn cất cho bố mình trên núi Hồng Lĩnh. Nhiều kẻ ác miệng được trang bị thêm tư tưởng thời cải cách còn xỉa xói: “Địa chủ bóc lột cho lắm, chết mất thây trên núi!”
Tôi đã nói, làng tôi là một làng quê cổ kính. Ngoài Cụ Hàn Châu điển hình cho lớp địa chủ có học, làng còn có nhiều gia đình giàu có khác mà thời kì cải cách đã sụp đổ hoàn toàn.
Gần nhà tôi, ở ngay đầu làng có một vuông đất hẹp. Được dựng lên trên đó là một hiệu cắt tóc bán di động. Chủ hiệu cắt tóc này là chú H, một người Miền Nam tập kết. Thời bé, hàng ngày tôi vẫn bế em ra quanh quẩn chơi ở đây. Nằm ở vị trí đầu làng nên chỗ này đông người qua lại rất vui. Đó là chưa kể khách đến hiệu cắt tóc của Chú H có thể nói là hơn hẳn những chỗ khác. Không hẳn vì chú cắt tóc đẹp mà là vì mọi người đến đây được nghe chú kể bao nhiêu chuyện hấp dẫn về Miền Nam, về vùng đất xa tít bên kia sông Bến Hải với vĩ tuyến mười bảy in đậm trong sử sách. Chú lại có giọng nói của người Quảng Trị nghe là lạ nữa. Trên vách nứa được thưng quanh cái “hiệu làm đầu đời cũ”này, chủ nhân của nó dùng vôi đề hai câu thơ mà câu trước và câu sau chẳng ăn nhập gì với nhau như người ta vẫn thường thấy ở những nơi “dân trí” thấp nhưng lại thích khoe chữ. Gần sáu mươi năm rồi mà tôi vẫn nhớ cả nét chữ viết ngoằn nghoèo trên vách:
    “Ở đây tai vách mạch rừng
      Quý khách hút thuốc xin đừng bẻ phên”
          Chú H tập kết ra Bắc, lúc đầu ở nhờ trong nhà thằng Phát bạn tôi (Nguyễn Đăng Phát – thằng bạn vẫn hay giành đọc Tam quốc, Thuỷ hử mà tôi đã nhắc đến ở phần trước). Bố Phát đi thoát li, nghe đâu có thời làm chủ tịch huyện Bố Trạch mãi trong Quảng Bình. Chắc là “gia đình cách mạng” nên nhà Phát được chọn làm nơi gửi thân của đồng bào Miền Nam tập kết.
          Nếu không có chuyện hàng tháng mẹ vẫn cho tôi mấy xu ra hiệu chú H cắt tóc, tôi đã không biết được bí mật này: Người chú khoẻ mạnh nhưng trên một bàn tay mất hẳn ngón trỏ. Một lần đi cắt tóc tôi mới chú ý và phát hiện điều này. Hồi đó lũ trẻ chúng tôi đã bắt đầu có những khái niệm như là “thương binh về làng”, “tập kết”…Tôi mới về hỏi bố: “ Cậu ơi! Chú H là thương binh à?” Bố tôi hỏi: “Sao con hỏi vậy?”. Tôi trả lời: “Con thấy chú cụt một ngón tay!” Bố tôi xuống giọng như sợ ai nghe thấy và lại gần tôi hơn: “Năm cải cách, chính tại nơi chú cắt tóc bây giờ ấy, khi đó là một gốc đa to đầu làng, đội cải cách dẫn địa chủ Nguyễn Trọng Tốc ra cánh đồng để hành quyết. Trước việc giết người, nhiều nông dân từng sống với địa chủ cũng thấy chùn tay. Chú H là thành phần “cốt cán”, là đội viên rất tích cực, đã trói ghì ông Trọng Tốc lại. Ông “địa chủ loại một” này chống cự, kêu oan liền bị chú H nhét dẻ vào miệng. Có lẽ là một phản xạ tự nhiên để chống lại kẻ đang cưỡng bức mình, ông cắn đứt luôn ngón tay đang đẩy nùi dẻ rách vào miệng mình. Câu chuyện là thế đấy, con!”                 
Tôi phải nói vòng vo một chút về cái hiệu cắt tóc vì muốn phản ánh rõ hơn công cuộc cải cách với những nhân vật của nó. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu sót rất nhiều: Sau này nhân vật trong hiệu cắt tóc ấy đã sống với gia đình mẹ nuôi ra sao, “bỏ quên” vợ con trong Nam thế nào…thôi thì chuyện ấy cũng đành “dằn lòng” thông cảm được.
 Địa chủ lớn nhất làng tôi cũng chưa phải là những người đã kể ở trên. Hồi bé tôi thường bế em đến nhà Bà ngoại. Đường đến nhà bà đi qua một chiếc cổng to hơn cả cổng làng. Mở hai cánh cổng bằng gỗ ra thấy cả một cái ngõ rộng, sâu hun hút, hai bên xây tường gạch, phía trên là những thanh sắt dài được uốn cong thành vòm cuốn nối nhau chạy mãi vào tận sân nhà. Đến nay chiếc cổng vẫn còn, đúng từ xa cũng thấy rõ giữa cái vòm cuốn chữ số 1941. Người khác thì không biết, còn tôi chẳng thấy chút “thành kiến địa chủ” nào mà chỉ thấy ngưỡng mộ một gia đình Nhà Nho yêu nước có tiếng khi về làng ngắm lại cái cổng này. Cả nhà có mấy anh em đều theo nhau hoạt động chống Pháp, chống lại cường quyền để giải phóng đất nước. 

 Đi hết cái ngõ dài, vượt qua khoảng sân gạch rộng là toà nhà hai tầng xây vào những năm đầu thập kỉ bốn mươi của thế kỉ trước. Nhà Phương Đông lai Tây. Thời thơ ấu, với tôi đây là toà nhà vào hàng hoành tráng nhất. Chủ nhân của toà nhà này là ông Nguyễn Trọng Cầu,  địa chủ, thầy thuốc Đông y rất uy tín và giàu có nhất làng. Ông Cầu có người em trai (hay anh trai, tôi không thật rõ) là Nguyễn Trọng Thốc (Đi hoạt động lấy tên là Nguyễn Tạo), tác giả cuốn “Chúng tôi vượt Ngục” và cuốn hồi kí nổi tiếng "Sống để hoạt động". Ông Nguyễn Tạo từng bị giam ở Hoả Lò và là một trong số bảy người tham gia "cuộc vượt ngục lừng danh năm 1932", trong đó có ông Nguyễn Lương Bằng. Một thời ông giữ chức bộ trưởng Nông – Lâm thì phải. Ông Nguyễn Trọng Tám, em trai thứ ông Cầu cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Thái Yên. Tôi có thằng bạn học hồi cấp hai con nhà cố nông nên ngày cải cách nhà nó được chia một gian phía sau của toà nhà to lớn ấy. Có lẽ đấy là một gian trong khu nhà bếp của ông Cầu. Đến nhà bạn chơi, tôi được thoả thích đá cầu, chọi gụ trong khu sân gạch rộng rãi ngày ấy nông dân có mơ cũng khó thấy.
Khi địa chủ Nguyễn Trọng Cầu được đưa vào danh sách tử hình thì cả nhà ông đã đi đâu rất xa, không còn bóng dáng ở làng. Nhiều năm sau, khi chuyện cải cách ruộng đất đã đi vào dĩ vãng thì người ta thấy ông Cầu xuất hiện cả trên báo chí. Gia đình ông ra sống ở Hà Nội. Ông trở thành một lương y thuộc hàng đầu trong cả nước. Nghe đồn rằng, chính ông là Bác sĩ Đông y đã chăm sóc sức khoẻ Hồ Chủ Tịch trong những ngày tháng cuối đời của Bác. Chỉ biết, khi ông mất báo chí lúc ấy đã đưa tin trang trọng.
Từ sau thời kì sửa sai, năm nào cũng thấy bà Cầu (vợ ông Nguyễn Trọng Cầu) từ Hà Nội về quê. Giờ thì không phải về thu tô thuế gì nữa. Cũng chẳng thấy ông bà đòi lại nhà cửa gì. Mấy gia đình cố nông được chia “của thực” thấy vẫn ung dung sống trong toà nhà của ông bà đại địa chủ ấy. Bà Cầu về quê chỉ vì một việc mà lũ trẻ chúng tôi rất mong đợi, đó là thu mua xác ve sầu để làm thuốc Bắc. Vì thế bà thường về vào cuối hè, khi mấy đứa “làm kinh tế nhạy bén” chúng tôi đã gom được cả một túi đầy xác ve để bán cho bà lấy mấy hào mua kem của mấy chú bán rao mang tận từ Vinh về. Không biết có phải vì “hết thời” nên bà Cầu đổi tính rồi không, chứ tôi thấy bà hiền khô, không “nanh ác”, “thâm hiểm” như nhiều người lớn nói. Khuôn mặt bà nhìn phúc hậu và bà mua bán với chúng tôi rất sòng phẳng, thỉnh thoảng còn thưởng thêm cho mấy xu. Năm nào bà không về, bọn trẻ chúng tôi phần buồn vì “hàng” của mình bị ế, phần cũng thấy nhớ bà.
Sau ông Cầu, làng tôi còn nhiều những địa chủ khác mà sự “ác bá” của họ, hồi cải cách tôi mới sinh chưa biết gì, còn khi lớn lên chỉ thấy con cháu họ nhìn chung đều giỏi giang và sống tử tế trong làng. Trong số đó có một Người Thầy đáng kính của tôi. Thầy là Nguyễn Trọng Tính, cháu ông địa chủ Năm Thái ở gần nhà Bà Ngoại tôi. Năm đầu lên cấp hai tôi học với Thầy. Lớp học là một cái lán nằm chìm vào lòng đất, xung quanh được bao bọc bởi một luỹ đất hầm chữ A để chống bom đạn trong những năm ác liệt của chiến tranh phá hoại. Chỉ dạy cấp hai nhưng Thầy rất giỏi, nói thạo tiếng Pháp, chữ đẹp, văn hay…Thời kì này người ta vẫn rất kì thị con nhà địa chủ nên tôi có cảm giác đồng nghiệp có vẻ né tránh Thầy. Tôi thì chỉ thấy Thầy hiền hậu, thông minh nên đi học chỉ mong đến giờ văn của Thầy. Nhớ có lần, năm ấy tôi học lớp năm, giờ trả bài tập làm văn, Thầy hỏi trước lớp: “Em nào là Nguyễn Trung Ngọc?” Tôi đứng dậy: “Dạ thưa thầy, em ạ!” Thầy lại hỏi: “Em con ai?” Tôi hơi ấp úng: “Dạ…con…Cậu Thu ạ!” Mặt Thầy có vẻ rạng lên: “A…con anh Thu, Năm Thu đúng không?” Thấy Thầy biết bố mình, tôi thoáng vui nhưng hổ thẹn đỏ mặt. Thầy chỉ gật gật đầu rồi cho tôi ngồi xuống và lấy tập bài làm phát cho cả lớp. Tôi sung sướng thấy bài văn của mình đạt điểm năm tuyệt đối (Hồi đó nhà trường chấm theo thang điểm 5). Về nhà, tôi kể lại chuyện trên lớp. Bố tôi cười: “Thầy Tính hồi trước học cùng trường Tây với Cậu, chỉ như cấp một các con bây giờ thôi nhưng trường của Pháp nó dạy kĩ lắm!”
Cái làng quê cổ kính cứ thế nâng bước tuổi thơ tôi cho đến tuổi mười bốn. Trong mười bốn năm ấy, nếu không có công cuộc “đánh địa chủ” làm chấn động dữ dội tâm tư của một người yêu đảng, yêu nước như bố tôi để rồi  dội vào tâm hồn thơ trẻ của tôi, nhen nhóm một ngọn lửa luôn bùng cháy để thiêu đốt những bất công sau này, thì có lẽ tôi đã là một đứa “bảo hoàng” đáng sợ. Có bố dẫn dắt, có những người thầy đáng kính dạy dỗ, có những trang sách cuốn hút…Tôi đã bước vào một thế giới bao la và ngộ ra biết bao điều mới mẻ.
Có lẽ nên nhắc thêm một chuyện này: Chéo góc nhà tôi, nằm sát bờ rào nhà Phát và ở ngay trước ngõ nhà Hoan (hai thằng bạn thiếu thời tôi đã kể ở phần trên) là nhà ông địa chủ Hương Sáu. Bị qui địa chủ nhưng ông là một nông dân chính hiệu, một người lao động tài giỏi, trong làng ít có ai sánh được. Thuở bé, tôi rất hay dắt em sang nhà ông xem những con cò, con diệc cao lêu khêu mùa bẫy chim chỉ ông bắt về được. Tôm cá dưới sông, ngoài đồng ông đi đánh bắt cũng thường được nhiều gấp hai ba người khác. Hồi hợp tác hoá, đội sản xuất luôn phải nhờ ông bắc mạ. Có tay ông gieo, mạ lên đều tăm tắp, ruộng mạ đến ngày nhổ cấy đẹp như một thảm lụa xanh, lượn thành một làn sóng dù là trước gió đông bắc mùa Đông hay gió nồm mùa hè đều thấy thật mơn mởn. Hình ảnh ấy cũng sống trong tôi cho đến tận bây giờ. Thế mà sau cải cách, không biết ai dạy cho mà khi mới ba bốn tuổi tôi đã biết chỉ tay vào ông Sáu mà kêu lên: “Ê! Địa chủ…Địa chủ…” Ông Sáu chỉ cúi đầu, vác cày và đuổi trâu ra đồng. Sau này lớn lên nghe mẹ kể tôi chỉ muốn khóc. Không biết ông Sáu nghĩ sao còn tôi thì xấu hổ muốn chui xuống đất. Tự tôi thấy mình đáng ăn chục cái tát.

Ông Hương Sáu có hai bà vợ. Bà cả đi ở với con làm bác sĩ và lấy vợ ngoài Vinh, thỉnh thoảng mới về nên tôi chỉ biết loáng thoáng. Bà hai người bên Đức Thuỷ, là một nông dân thực thụ. Hình ảnh bà đọng trong tôi là một người “đàn bà đời sơ” thường bận chiếc váy nâu sồng vận lên cao, đeo giỏ bên hông, tay cầm chiếc móc ra đồng bắt cua và ốc. Bà siêng năng, tần tảo quanh năm và làm nông cũng giỏi khó ai bì. Ông làm cho ba mẹ con bà một túp nhà tranh ở riêng phía vườn sau (Ông Sáu có hai con với bà). Mùa kéo tơ, anh em tôi thường vẫn dắt nhau sang nhà bà ngồi suốt buổi mải mê nhìn bà kéo kén quay tơ, cuộn thành những cuộn tươi vàng, óng ả. Thỉnh thoảng bà cho mỗi đứa một con nhộng tằm đã luộc chín, ăn ngon vô kể. Cuộc sống của “nhánh phụ” gia đình ông Hương Sáu không ồn ào, sôi động mà cứ bình dị, lặng lẽ, lầm lũi đi xuyên qua từng năm tháng, góp thêm sự “cổ kính” của làng tôi… 
(Còn nữa)

Dấu tích cổng nhà ông Nguyễn Trọng Cầu


Dãy nhà dài phía trong là nhà học chính của trường Mầm non Thái Yên ngày nay được tu sửa lại từ trường cấp I xưa do Cụ Hàn Châu xây cho con em trong làng.

5 tháng 12, 2018

Chuyện như cổ tích


NGÔI TRƯỜNG MANG TÊN JUNKO
Tác giả: Bùi Văn Phùng (theo FB An Van Tao)
—————–
Mùa hè năm 1993, người con gái Nhật Bản có tên Junko Takahashi tròn 20 tuổi, là sinh viên năm thứ 3 của Trường Đại học Minh Trị Thiên Hoàng, học ngành Quan hệ quốc tế.
Tranh thủ thời gian nghỉ hè, cô cùng những người bạn lên đường sang Việt Nam tìm hiểu, nghiên cứu các tư liệu phục vụ cho bài luận văn với chủ đề “Sự phát triển kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực Đông Nam Á”.
Khi đặt chân đến vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, Junko ấn tượng bởi cuộc sống của người dân nơi đây. Tuy nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng họ sống hiền hoà, chân chất, nghĩa tình.
Từ những người nông dân lam lũ đến những em bé thơ ngây, ai cũng chào đón cô và những người bạn rất nhiệt tình bằng sự mộc mạc gần gũi theo cách của người dân quê nghèo khổ.
Vừa đi, vừa chứng kiến, cô mang trong mình nỗi trăn trở về cuộc sống của người dân xứ Quảng Đà. Dọc đường bắt gặp những gì, Junko đều ghi vào cuốn sổ nhật ký.
Trong đó có trang Junko ghi rằng, khi tốt nghiệp ra trường, cô muốn tìm kiếm việc làm tại Việt Nam và dành số tiền lương để xây dựng một ngôi trường cho các em nhỏ học hành tử tế, đầy đủ tiện nghi.
Tuy nhiên, sau 01 tháng trở lại Nhật Bản, Junko qua đời sau một tai nạn giao thông.
Cứ ngỡ rằng, những tâm nguyện của cô gái trẻ xứ hoa anh đào sẽ không thực hiện, thì may thay, bố cô là ông Horotaro TaKahashi đã lật giở những trang nhật ký và biết được ước mơ của con gái mình.
Thương con, ông Horotaro Takahashi quyết định sang Việt Nam thực hiện điều này.
Theo phong tục người Nhật, khi con gái tròn 20 tuổi, họ tổ chức lễ trưởng thành, cha mẹ sẽ cho một ít tài sản. Ông bà Horotaro TaKahashi kinh doanh xăng dầu, thuộc dạng khá giả đã dành số tiền này cộng với tiền bồi thường bảo hiểm, tiền phúng điếu… để xây dựng Trường Tiểu học Junko và chi phí cho trang thiết bị của trường.
Khi ấy, ở Điện Phước, Điện Bàn đang thiếu thốn nhiều thứ, chỉ có một ngồi trường bé nhỏ, trang thiết bị hầu như không có. Khi hai vợ chồng Horotaro đến và họ đồng ý xây trường tại đây.
Ông bà Horotaro đã đầu tư 100.000 USD (tương đương 1 tỷ đồng) xây một ngôi trường 8 phòng, một nhà thi đấu, một công trình vệ sinh. Ngày 4/9/1995, ngôi trường hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Để ghi ơn người con gái Nhật Bản, ngôi trường cũ Hoàng Hoa Thám được đổi tên thành Trường Tiểu học Junko.
Trước cái chết của Junko, một nhóm sinh viên Trường Đại học Minh Trị Thiên Hoàng, nơi Junko học tập đã thành lập Hiệp hội Junko. Hội đứng ra quyên góp tiền của, vật dụng để đầu tư vào ngôi trường mà ông bà Horotaro xây dựng.
Năm học 1995-1996, trường khánh thành và khai giảng năm học đầu tiên với 950 học sinh. Đến năm 2000, những người bạn của bố mẹ Junko tiếp tục quyên góp, xây thêm 5 phòng học trên tầng lầu, trị giá khoảng 200 triệu đồng…
Càng trân trọng hơn, từ đó đến nay, hằng năm ông bà Horotaro và sinh viên Hiệp hội Junko đều sang thăm trường từ 1-2 lần.
Đặc biệt, Hiệp hội Junko năm nào cũng trao tặng hàng trăm suất học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó của tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng. Trong đó, thường dành cho học sinh trường Junko từ 20-45 suất, trị giá mỗi suất 20 USD.
“Một ngôi trường được xây dựng bằng sự thiện tâm và tình nhân ái của Junko, của bố mẹ, bạn bè và người thân của cô, của những giáo sư và sinh viên Trường Đại học Minh Trị Thiên Hoàng, đã tồn tại trên đất Quảng Nam gần 20 năm qua, chính là vườn hoa đẹp của tình hữu nghị Việt – Nhật”, thầy Trần Công Trường, Hiệu trưởng nhà trường nói.
Cảm kích trước nghĩa cử của Junko và những người thân, bạn bè của cô, thầy trò nhà trường ra sức thi đua học tập, giảng dạy thật tốt.
Đến năm 2000, trường Junko là ngôi trường thứ hai ở TX Điện Bàn được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia 1996 – 2000. Năm học 2015-2016 này, trường Junko tiếp nhận hơn 450 học sinh vào 18 lớp tiểu học.
Không phụ lòng người đã khuất
Suốt chặng đường 20 năm hình thành và phát triển, ngôi trường đã đào tạo và nâng bước biết bao thế hệ học sinh. Rất nhiều người xuất phát từ ngôi trường đã trưởng thành và đóng góp đáng kể cho quê hương, đất nước…
Không dừng lại ở sự nghiệp trồng người, vào những ngày mùa màng, tranh thủ những ngày Chủ nhật, người nông dân lại mượn sân trường để phơi lúa, sắn, bắp…
Hay những tháng ngày mưa bão, lũ lụt, ngôi trường là nơi che chở, nương trú của những hộ dân nghèo.
Cảm ơn Junko đã cho con em Điện Phước, Điện Bàn có một ngôi trường để học tập. Chất lượng dạy và học ở trường được nâng cao nên gia đình các xã bên cạnh cũng đưa con đến đây theo học.





28 tháng 11, 2018

Mùa mưa trên TP. Hồ Chí Minh


 Người Sài Gòn những ngày này vẫn chưa hoàn hồn về cơn bão số 9 – Usagi; phụ huynh và học sinh cả nước chưa hết choáng về vụ cô giáo Thủy ở Duy Ninh, Quảng Bình cho học trò ăn một lúc 231 cái tát; rồi vụ 3 thằng lưu manh ở xứ Thanh ra tay hành hung nữ nhân viên hàng không vì không chịu chụp hình chung với chúng; trong lúc người dân cả nước vẫn ngày ngày dõi theo các vụ đại án diễn ra liên tiếp và tưởng như ngã bổ chửng khi biết có những viên tướng công an phụ trách mảng công nghệ nhưng không biết xài điện thoại thông minh, máy tính và internet.v.v.
Tất cả cứ như là một sự ngỡ ngàng.
Có những kẻ chẳng xuất sắc gì tốt nghiệp đi lêu têu vì thất nghiệp, nhờ có bàn tay nâng đỡ của người quen tốt bụng thương người bỗng chốc có được việc làm rồi nhờ chút cơ hội vụt đến mà một phút thăng quan nghiễm nhiên chễm chệ địa vị xã hội rồi ngày ngày phán xét linh tinh với những lời ngu ngơ như ngáo đá nhưng cứ tưởng mình là thiên tài và quên hết bạn bè, quên cả công ơn người từng nâng đỡ mình, quên luôn cả trách nhiệm với đất nước để quanh năm hưởng lạc; nhìn thảm cảnh đất nước từ thiên tai đến nhân tai như là một cái gì không liên quan ở một chân trời xa lạ; thậm chí nhìn bạn bè đồng nghiệp thất sủng mà mỉm cười đắc ý. Họ mê mẩn với vinh quang thực tại và vô cảm với đồng loại. Xã hội càng bất ổn thì họ càng kiếm được nhiệu lợi lộc.
Điều đó cũng khiến tất cả ngỡ ngàng.
Báo chí những ngày này chuyên đưa tin bài gây shock cho độc giả. Vô facebook  thấy náo loạn những thông tin gây hoang mang cho xã hội.
Lại thấy chợt vui vui và hài hước khi lên mạng thấy có ông thầy cũ chuyển cho bài hát chế Mùa mưa trên TP. Hồ Chí Minh.
Nhân loại từng lấy cái hài để tiễn đưa quá khứ đau buồn và chấp nhận sống chung với những cái xấu trong thực tại.

https://www.youtube.com/watch?v=ATt1TaLWn2U&fbclid=IwAR0xOeLhNTuS2G3y7wZdwhVwHrNvzvdqZax5EIzma4Wz2aiiN9_YwwoalDE



  


26 tháng 11, 2018

Răng sư tử


CUỐN SÁCH CHỨA ĐỰNG NHỮNG  BÍ MẬT NHIỀU NGƯỜI MUỐN BIẾT

Bản tính của loài người là tò mò. Vì tò mò mà có người thích nhìn những chuyện xảy ra sau khe cửa; vì tò mò mà không ít người rất thích tụm năm tụm ba hóng chuyện người khác. Cũng vì tò mò mà các kho lưu trữ hồ sơ của các cơ quan chính phủ sau khi được giải mật trở thành những nguồn tư liệu quý hơn vàng của các nhà văn nhà báo để từ đó biến thành những cuốn sách qúy hiếm buộc hàng triệu độc giả trên khắp hành tinh phải dán mắt vào đọc.

RĂNG SƯ TỬ của nhà báo Yên Ba do nhà sách Đông  A phát hành là một cuốn sách như thế. Những câu chuyện kể trong cuốn sách dày đến 890 trang này là nói về những nhân vật lịch sử, các quốc gia thời hiện đại trong các cuộc chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh đã diễn ra trên thế giới này. Tưởng như nó không liên quan gì đến ta nhưng vì tò mò, ta lại rất quan tâm và muốn được biết.
Đánh cắp nguyên tử, Đại tá Abel, Hò hẹn trên cầu, Kim cương hai mặt, Sinh nghề tử nghiệp, Nghệ thuật đổi phe, Sát thủ lụy tiền.v.v. là những cái title khiến ta tò mò tìm đọc.
Sài Gòn ngày mưa bão Usagi gió rít u u và nước ngập tứ bề, ngồi đọc Răng sư tử thật thú vị.




  


    

25 tháng 11, 2018

Chuyện mới tinh


Là nói chuyện tuần trước khi lên lớp cho một lớp năm 2 đến chương Tác phẩm văn học trữ tình, tôi đã lấy bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân để phân tích dẫn chứng cho những đặc điểm của thơ. Trong đó tôi phân tích kĩ hình ảnh anh lính quân giải phóng đã dũng cảm chiến đấu và hi sinh trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất với những câu thơ bi tráng:
Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng...
Giờ giải lao có em sinh viên gặp tôi nói: Bài thơ Dáng đứng VN hay quá thầy. Hay sao em. Thì em đọc trên mạng thấy người ta thêm vô mấy câu:
Đồng đội bảo sao mà anh ngu thế
Anh chết rồi sân bay thành sân golf.
Nói xong nó bỏ đi để lại ông thầy là tôi đứng như trời trồng.
Lại nhớ hôm bữa đi dự 20/11 có tay PGS bên tổ mác – lê ngồi với tôi (lạ một chố dân bộ môn này toàn là PGS), khi biết tôi thời trai trẻ 43 năm trước là lính sư 341 từng cầm súng đánh đuổi quân “Mỹ - Ngụy” vào tận sào huyệt của chúng ở Sài Gòn là Dinh Độc Lập, hắn khen một câu rất nhẹ nhàng: Thế hệ các anh đã có công rất lớn là góp phần đánh đổ một chế độ thối nát để dựng lên một chế độ thối nát hơn.
Nghe hắn nói, tôi chạy vô nhà vệ sinh nhổ ngay ngụm bia chợt trở nên đắng ngăn ngắt như thuốc độc.

Quân giải phóng tiến đánh sân bay Tân sơn Nhất




2 tháng 11, 2018

Chuyện anh Cao Anh Phú

Lớp đại học của tôi ngày ấy có 45 người từ đủ mọi miền quê đến học. Đặc biệt trong lớp có 17 người là những cựu chiến binh từ các mặt trận trở về sau những năm tháng chiến tranh ác liệt. Vì thế tuy học cùng một lớp với nhau nhưng người này cách người kia có khi cả hàng chục tuổi, cách nhau cả một con giáp là chuyện thường. Ngày ngày lên lớp học, bên cạnh những màu áo sinh viên trẻ trung tươi sáng vẫn gần như tràn ngập những chiếc áo quân phục đã bạc màu khoác trên mình những cựu quân nhân mà màu da còn xanh mướt bởi những cơn sốt rét mang về từ núi rừng Trường Sơn. Không ít người là thương binh vừa rời quân y viện trở lại trường đại học.
Trong số đó tôi ấn tượng nhất với anh Cao Anh Phú. Anh quê ở huyện miền núi Cẩm Thủy, Thanh Hóa, sinh năm 1945 anh hơn tôi cả chục tuổi dù tôi cũng đi lính mấy năm trở về. Nhưng số năm đi lính của tôi so với anh chưa là cái... đinh rỉ gì. Tôi rời trường đại học và đi lính chỉ 3 năm 3 tháng rồi trở về lại, anh ở lính hơn 8 năm trời. Ai đã đi lính mới biết, đó là những tháng ngày kinh khủng của đời người, nhất là đi lính thời chiến với những chiến trường B, chiến trường C, chiến trường K... Đó là chưa nói chuyện tôi may mắn trở lại trường với hình hài lành lặn thì anh Cao Anh Phú bị cụt mất cánh tay phải trong một trận đánh, anh trở thành thương binh với thương tật xếp loại hạng 4.
Trong lúc đa số mọi người trong lớp đi học với tâm hồn vô tư chỉ biết học và chơi thì Cao Anh Phú đi học với một gia đình để lại ở quê cả một gánh nặng mà cho đến giờ tôi vẫn không hình dung nổi: Một người vợ nông dân chân lấm tay bùn và một nách 4 đứa con thơ dại. Những đồng phụ cấp ít ỏi của người lính xuất ngũ, của người thương binh hàng tháng do vậy còn được anh dành dụm gửi về cho vợ con ở quê.
Dù lớn tuổi nhất lớp và công trạng trong chiến tranh giữ nước hiển hiện rõ ràng như thế nhưng anh Cao Anh Phú chưa bao giờ tỏ ra công thần, khoác lác về những chuyện kể trong chiến đấu. Ngược lại anh sống hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ. Hầu như suốt 4 năm học tôi chưa thấy anh to tiếng với ai bao giờ. Thậm chí mấy thằng nhóc trong lớp nói lái tên anh thành Cu Anh Pháo và gọi vang cái tên đầy gợi cảm nhục dục ấy giữa lớp học anh vẫn không chấp nhặt, thậm chí còn cười góp cho vui vào với chúng nó, lũ mất dạy.
Dù đi lính 8 năm về, anh Phú vẫn có nước da trắng hồng, khuôn mặt vuông chữ điền với hàm râu quai nón rất đẹp trai và nam tính. Thỉnh thoảng tôi vẫn lấy tay xoa xoa hàm râu hùm của anh. Nhưng với anh, ái ngại nhất là cánh tay phải bị cụt trong lúc anh lại thuận tay phải.
Có lần tôi nắm cái tay cụt của anh nắn nắn hỏi nó có phiền lắm không anh. Anh nói quá phiền là khác. Rồi anh kể không phải là anh thích học văn và thi vào khoa văn này đâu mà chính là anh thích học toán và đã thi đỗ vào khoa toán của trường chúng tôi – ĐHSP Vinh. Nhưng khi đến trường làm thủ tục nhập học, thấy anh chỉ còn lại có mỗi cánh tay trái, các thầy trong ban tuyển sinh đã rất ái ngại và nói nếu anh học toán, sau này ra làm giáo viên dạy toán sẽ rất khó cho việc sử dụng các đồ dùng dạy học như com pa, thước kẻ... Lúc đó anh cũng mới nghĩ ra sự trái khoáy của việc nếu vào học khoa toán và sau này ra dạy toán. Cuối cùng thì Nhà trường đã khuyên nhủ và giải quyết để anh trở thành SV khoa văn. Nhờ thế mà tôi được học cùng lớp 16D K2 với anh.
Tôi và mọi người trong lớp cho đến nay sau gần 40 mươi năm ra trường vẫn chưa quên câu chuyện liên quan đến cái tay cụt của Cao Anh Phú khi học năm thứ 3, bởi nó quá nhiều ấn tượng với một sự xúc động mãnh liệt.
Buổi học hôm ấy giữa mà đông. Anh Phú mặc một cái áo bông kiểu Tôn Trung Sơn có 2 cái túi chéo 2 bên để đút tay vào cho ấm. Anh Phú chỉ còn một tay bên trái, tay phải bị cụt nên ống tay áo buông thõng ra anh phải đút vào cái túi chéo bên phải cho gọn. Hôm đó là mấy tiết môn ngữ pháp học của GS. Phan Thiều, một trong những nhà ngôn ngữ học nổi tiếng của nước ta.
Thầy Phan Thiều khi đó còn là Phó Chủ nhiệm khoa văn của chúng tôi. Thầy vừa đạo mạo, mô phạm, lại khá nghiêm khắc. Mỗi giờ lên lớp học môn của thầy là mỗi giờ chúng tôi được tiếp thu những kiến thức ngôn ngữ học được mệnh danh là phong ba bão táp của Việt Nam qua cách truyền thụ khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu của một nhà sư phạm lão luyện. Nhờ học với thầy mà kĩ năng phân tích ngữ pháp của chúng tôi khá hẳn lên.
Hôm đó thầy ra đề tài thực hành trên bảng về phân tích các thành phần trong một câu văn phức hợp. Thầy nhìn bao quát cả lớp học rồi dừng lại ở Cao Anh Phú: Mời anh lên bảng.
Cao Anh Phú đứng dậy bình tĩnh bước lên bảng. Thầy Phan Thiều từ trên bục giảng nhìn xuống thấy một cánh tay của người sinh viên vẫn ung dung đút trong túi áo bông. Sao lại có sinh viên vô lễ như thế chứ, lên bảng làm bài tập vẫn tay đút túi. Là một thầy giáo nghiêm khắc, GS Thiều giận đỏ cả mặt. Thầy gằn giọng nhưng vẫn đủ cho cả lớp học nghe rõ: Yêu cầu anh rút tay ra khỏi túi. Anh không biết lễ độ là gì à. Tôi khi đó ngồi ở bàn thứ 3 từ trên xuống nên nhìn rất rõ. Cao Anh Phú đã đứng trên bảng, thầy Phan Thiều vẫn đứng ở bàn giảng viên. Thầy như run lên vì giận. Cao Anh Phú quay về phía thầy định nói mấy câu giải thích vì sao lại thế: Dạ... thưa thầy... Không dạ thưa gì cả, anh rút tay ra ngay khỏi túi áo cho tôi. Cao Anh Phú không nói gì thêm nữa, anh quay về phía thầy, lấy tay trái đưa sang rút cái ống tay áo bên phải ra khỏi túi rồi để bên ngoài cho thõng xuống. Em xin lỗi...
Thầy Phan Thiều ngay lập tức đã hiểu ra hết sự việc tưởng như vô lí nhưng rất có lí ấy. Nét mặt thầy đang đỏ lên vì giận bỗng trở nên tái lại, một bên má thầy giật giật. Thầy đang rất xúc động. Trước mắt mình, ngay bên cạnh mình không chỉ là người học trò mà đang là một người lính, một người thương binh đã để lại trên chiến trường một phần thân thể của mình và trở lại trường đại học sau cuộc chiến. Thầy bước ngay đến bên Cao Anh Phú nắm lấy cái tay áo buông thõng của anh đút lại vào túi áo: Tôi xin lỗi... Mời anh về chỗ.
Cả lớp học gồm hàng trăm sinh viên lặng hẳn đi (khi đó chúng tôi học ghép 2 lớp 16D và 16B với nhau).
Tốt nghiệp, chúng tôi mỗi người tỏa đi một phương trời để hành nghề dạy học. Có nhiều người đi đến những phương trời rất xa của đất nước. Riêng Cao Anh Phú vì lớn tuổi lại thương binh nặng nên anh được trở về quê nhà Cẩm Thủy dạy học ở một trường cấp 3.
Tháng 8 năm 2013, sau 34 năm tốt nghiệp, chúng tôi tổ chức họp lớp để gặp gỡ lại nhau; để xem mọi người đang như thế nào và đang sống ra sao. Nơi họp lớp là mái trường ĐHSP Vinh thân yêu. Cao Anh Phú nghe tin mừng lắm, anh nói một câu mà tôi nghe muốn nổi da gà: Chúng mày mà tổ chức họp lớp thì dù có phải bán đi một con bò để lấy tiền đi lại tao cũng sẵn sàng.
Cuộc họp lớp lần đầu đó chỉ chưa đầy 20 bạn tham dự. Nhiều người không về được do đủ mọi thứ hoàn cảnh, đủ mọi thứ lí do. Dù ít vậy nhưng đã rất thành công. Gặp nhau ở sân trường, mái tóc bạc trắng như cước, Cao Anh Phú đã ôm lấy chúng tôi, cánh tay bên phải bị cụt và cánh tay trái còn lại cứ đấm đấm vào lưng tôi, nước mắt lưng tròng. Năm sau lại họp nữa nhé. Khi chia tay để ai về nhà nấy, anh đã nói với tôi như vậy. OK, hiển nhiên rồi anh. Rồi tôi kí tặng anh văn bản bài phát biểu tại buổi họp lớp cùng danh sách họ tên với đầy đủ số điện thoại của mọi người trong lớp. Anh vui lắm.
Trở lại Sài Gòn sau kì họp lớp, tôi rất cảm động khi vẫn nhận được những cuộc điện thoại khá dài của anh. Sau những màn thăm hỏi anh vẫn không quên nhắc tôi: Nhớ tổ chức họp lớp nữa nhé. Dư âm cuộc họp lớp vẫn chưa tan chảy trong anh.
Chúng tôi định và đã bàn với nhau sang năm sau, 2019, khi trường Đh Vinh tổ chức kỉ niệm tròn 60 năm thành lập, sẽ kết hợp họp lớp để gặp lại bạn bè sau tròn 40 năm tốt nghiệp, gặp lại anh Cao Anh Phú.
Nhưng... đã không kịp nữa rồi. Hôm tháng 8 gặp Uông Ngọc Dậu, bạn cho biết anh Cao Anh Phú đã qua đời vào hồi đầu năm 2015 vì ốm đau bệnh tật.
Nhớ và thương anh thế.

 Anh Cao Anh Phú (bên phải) chụp ảnh kỉ niệm với 2 bạn học cùng lớp 16D K2 Sung Nguyen Xuan và Uông Ngọc Dậu trong lần họp lớp 8/2013