Ths. Chử Anh Đào
Trong khoảng mười
năm trở lại đây, công việc sưu tầm văn nghệ dân gian Jrai, Bah nar nói chung và
văn học dân gian của hai tộc người này nói riêng của các tác giả trong và ngoài
tỉnh đã có những thành tựu đáng ghi nhận. Các tuyển tập sử thi, truyện cổ, câu
đố, phần lời dân ca…lần lượt được xuất bản. Riêng mảng tục ngữ, thành ngữ, theo
chỗ chúng tôi biết, mới chỉ xuất hiện rải rác trong những công trình có những
đối tượng nghiên cứu rộng lớn hơn hoăc trong các tài liệu giáo khoa song ngữ,
chưa thành những chuyên khảo riêng biệt.
Ai cũng biết sưu
tầm, nghiên cứu folclore của một tộc người đòi hỏi nhiều công sức, phẩm chất:
phải có tâm huyết, lòng kiên nhẫn, sức chịu đựng, sự hi sinh…và một phương pháp
làm việc khoa học, trung thực, nghiêm túc. Nhưng khi tiếp xúc với các tài liệu
tục ngữ Jrai(*) thì tình hình không hoàn toàn như vậy. Đành rằng folclore của
tộc người vừa mang bản sắc của dân tộc mình vừa mang tính phổ quát toàn nhân
loại.Ví dụ về bài học đoàn kết, người Việt nói: Một cây làm chẳng nên non… người Jrai nói: Vỗ tay cần nhiều ngón; người Lào nói: Một
thanh củi nhóm bếp không cháy…
Nhưng khi đọc tục ngữ Jrai, tôi có cảm giác như các tác giả dịch từ tục ngữ của
người Việt sang chữ Jrai. Ví dụ ( đã dịch ra tiếng Việt): Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ, Trăng
quầng thì hạn, trăng tán thì mưa, Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì, ăn vóc học
hay, học hay cày(?)
giỏi, Tốt gỗ hơn tốt nước sơn(?)…Vậy
yếu tố nào đã làm nên cái độc đáo, cái bản sắc không trộn lẫn giưa tục ngữ của
dân tộc này với tục ngữ của dân tộc khác? Theo chúng tôi, đó chính là ở hệ thống hình
tượng riêng biệt, lối so sánh ví von và các biện pháp tu từ ngữ nghĩa
khác( ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng…) gần gũi với đời sống hàng nghìn năm của
dân tộc mình. Ví dụ, sau đây là những câu tục ngữ của người Jrai tôi sưu
tầm được qua điền dã và đã học tập, vận dụng chúng vào trong các tác phẩm của
mình hơn ba chục năm qua. Chủ quan mà nói, chúng có tinh “bản địa” hơn những
câu trong tài liệu đã dẫn:
- Nhổ nước
miếng chưa khỏi bếp.
- Muốn nhổ
nước miếng phải nhìn chỗ
- Mắt còn
giăng đầy mạng nhện
- Nghèo xơ
như bã quả chanh
- Nghèo
dính như bã quả sung
- ( Của
cải) con gà trống ăn không đủ một bọc diều
- Đầu đen
máu đỏ
- Dẻo như
con rắn trong hang
- Ngực mới
nhú như trái Ktang
- Nắng vỡ
ống tre Mơ ô
- Núi đá
thở ra khói
- Bụng cồn
cào như thác xoáy
- Vui như
có con chim cúc cù đang hót ( chim út út)
- Mắt xoay
chong chóng
- Một tai
thỏ, một tai chó
- Một mắt
nhìn phía Đông, một mắt nhìn phía Tây
- Đẹp (
ngọt) như nước trong bầu
- Nguồn
đục, nước dòng không trong
- Lòng dài
như sông
- Bụng
rộng như núi
- Gà ngủ,
chồn không ngủ
- Chiêng
treo bếp lửa ( tình thế nguy ngập)
- Vang như
chiêng Lào ( chiêng tốt, quí)
- Im như
tượng mồ
- Buồn như
khu nhà mồ đã bỏ
- Rối như
bó sợi gai trước gió
- Héo như
tàu thuốc lá ngoài nắng
- Tua khố
như tàu thuốc lá héo ( rách nát)
- Muốn làm
con nai ăn sẵn lộc đồi tranh
- Rượu sếp
vành tai lại( rượu mạnh)
- Ngọt như
bắp sữa ngậm cờ
- Một con
mắt đau, con kia nhấp nháy
- Như
thanh gỗ mục không lát nổi sàn ngoài
- Như rựa
chém xuống đá
- Như sấm
gọi núi đá
- Như con
dúi chuyên đi đào lỗ
- Như con
chuột thối chí trong hang
- Như bị
tát nước ớt vào mặt, bị đổ nước cà vào mũi
- Như gốc
cây đã mục, đã khô
- Rỗng như
cái gùi thủng
- Vỗ tay
cần nhiều ngón
- Nhiều
như con vắt trên rừng
- Buồn như
con vượn ốm lạc đàn
- Buồn như
con nai con sập bẫy
- Như vừa
uống xong một chum rượu
- Con mang
giật mình vì phân nó ( rơi trúng gót chân- hèn nhát)
- Rễ người
dài
- Được thỏ
đừng quên chó
- Hổ ra
khỏi rừng gặp chó cũng phải chào
… …
Trong giao tiếp và
sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, người ta rất cần vận dụng tục ngữ, thành ngữ. Vận dụng nhuần nhuyễn sẽ
làm cho nội dung thông báo thêm hàm súc, sức thuyết phục và giá trị thẩm mĩ.
C.A.Đ
(*) “Tơ lơi Duai Jrai”; Dự án UNICEF; Sở GD&ĐT Gia Lai; Plei Ku, 8-2013 (Bản thảo đã nghiệm thu).
Có rất nhiều câu tương đương với ca da tục ngữ Việt bạn nhỉ? Nhưng dù sao thì nó cũng rất riêng.
Trả lờiXóaVăn học dân gian của các dân tộc đều có những nét tương đồng về cả nội dung lẫn hình thức bạn ạ..
Xóa